Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Ông già và biển cả (Hê-Minh-Uê)

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 30 tháng 10 2019 lúc 11:50:59


Mục lục
* * * * *

Phân tích tác phẩm Ông già và biển cả

Hê-minh-uê sinh ra trong một gia đình trí thức. Có thể coi ông là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Mỹ. Ông sáng tác dựa trên nguyên lí tảng băng trôi, ba phần nổi, bảy phần chìm, bởi vậy các tác phẩm của ông rất giàu ý nghĩa biểu tượng. Ông già và biển cả là tác phẩm thể hiện chính xác và đầy đủ nhất phong cách của ông. Tác phẩm ngay từ khi ra đời đã gây được tiếng vang lớn trong giới văn nghệ sĩ. Đoạn trích được trích ở phần cuối của tác phẩm.

    Tác phẩm nổi bật lên với hai hình tượng chính là con cá kiếm và ông già đánh cá. Mỗi hình tượng mang những vẻ đẹp riêng, vừa bổ sung, vừa làm nổi bật vẻ đẹp của đối phương.

    Trước hết hình tượng con cá kiếm đã được tác giả khắc họa vô cùng lớn và đẹp. Tác giả đã dung hàng loạt câu văn để miêu tả về vẻ đẹp của nó: Một cái bóng đen vượt dài qua dưới con thuyền, không dừng lại ở đó nó còn có một “Cái đuôi lớn hơn cả một chiếc lưỡi hái lớn màu tím hồng dựng trên đại dương xanh thẳm”. Thân hình của nó đồ sộ và những dọc màu tía trên mình và Cánh vi trên lưng xếp lại, bộ vây to sụ ên sườn xòe rộng. Chỉ với từng ấy câu văn thôi, nhưng Hê-minh-uê đã cho người đọc hình dung đầy đủ về vẻ đẹp của con cá kiếm và đằng sau vẻ đẹp kì vĩ, to lớn ấy chắc chẵn sẽ ẩn chứa những sức mạnh khủng khiếp. Sau khi mắc vào lưỡi câu của ông lão đánh cá, dù đã bị thương nhưng con cá vẫn có những vòng bơi lớn, liên tục, dường như vết thương đó không hề hấn gì với bề ngoài khổng lồ của nó. Chính những vòng bơi khổng lồ đó khiến cho ông lão hoa mắt, chóng mắt, và choáng váng. Quả thực đây là màn đấu lực không hề cân sức.

    Nhưng không dừng lại ở đó, khắc họa hình tượng con cá kiếm tác giả còn cho thấy một vẻ đẹp khác của nó đó chính là vẻ đẹp của sự kiêu hùng và bất khuất. Khi bị ông lão phóng mũi lao trúng tim, bị kết liễu sinh mạng nhưng nó vẫn dùng hết những sức lực cuối cùng để tung người lên. Quả là một cái chết cách oai hùng, mạnh mẽ, kiêu ngạo, đầy khí phách. Tác giả không chỉ đơn thuần miêu tả con cá kiếm, mà đằng sau những câu văn miêu tả đó cũng chính là cách để tác giả tôn vinh ông lão đánh cá. Tác giả muốn con cá phải là đối thủ ngang sức, ngang tài của ông lão đánh cá, xứng đáng là con ác mà ông lão chờ đợi. Tôn vinh con cá cũng là tôn vinh chiến thắng vinh quang và tầm vóc của con người.

    Đúng như nguyên lí tảng băng trôi, xây dựng hình tượng con cá kiếm, Hê-minh-uê cũng gửi gắm những ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Trước hết dưới góc nhìn thiên nhiên, con cá kiếm là biểu tượng cho vẻ đẹp và sức mạnh của tự nhiên. Còn dưới góc nhìn từ cuộc sống con người, thì hình tượng con cá kiếm lại chính là biểu tượng cho những thử thách, chông gai trong cuộc đời mà con người cần phải vượt qua. Cuối cùng dưới góc nhìn nghệ thuật, con cá kiếm lại chính là biểu tượng của những mơ ước và sáng tạo.

    Nhưng đẹp đẽ nhất, gửi gắm nhiều ý nghĩa nhất chính là hình tượng của ông lão đánh cá. Ông lão đánh cá được đặt trong cuộc chiến không hề cân sức, ông lão đã tuổi cao sức yếu, lại mấy ngày lênh đênh trên biển, đói khát và mệt mỏi. Ông đã bị suy kiệt nghiêm trọng về thể lực. Trong khi đó con cá kiếm lại to lớn, đầy sức mạnh, kiêu hùng bất khuất. Hơn nữa, biển cả là nhà, là thế mạnh thuộc về con cá kiếm. Đặt ông lão ông trong cuộc chiến không cân sức, tác giả nhằm tôn vinh, ngợi ca ông lão với những phẩm chất làm nên chiến thắng.

    Trong cuộc chiến không cân sức ấy,những phẩm chất, vẻ đẹp của ông lão đánh cá đã được bộc lộ đầy đủ nhất. Trước hết ông là người thạo nghề, mưu trí và kinh nghiệm. Ông chỉ cần nhìn độ nghiêng, độ chếch của sợi dây có thể biết được con cá đang bơi tròn hay đang liên tục ngoi lê trong lúc bơi. Và ông chỉ cần dựa vào độ căng trùng của sợi dây có thể đoán biết được con cá đang làm gì. Nếu không phải là người đánh cá lành nghề, chắc chắn ông không thể có những phán đoán chính xác đến vậy. Đặc biệt ông có cách xử lí là kéo vào hay nới ra để con cá dần trở nên kiệt sức mà không bị đau đớn đến phát cuồng lên. Cuối cùng chính là cách ông lựa chọn thời điểm đưa ra đòn quyết định, phóng lao trúng tim con cá một cách dứt khoát, quyết đoán và đầy điêu luyện để chấm dứt cuộc chiến không cân sức này.

    Để hạ gục được con cá, không chỉ cần sự điêu luyện, thành thạo mà còn cần cả niềm tin vào chính mình. Trong quá trình chiến đấu với con cá ông liên tục nhắc đi nhắc lại những lời động viên, khuyến khích bản thâ, tin tưởng vào chiến thắng: “tao sẽ tóm được mày”… Và hơn hết ông có ý chí và nghị lực phi thường. Nhiều lúc ông tưởng rằng mình có thể sẽ gục ngã: hoa mắt suốt cả tiếng đồng hồ, chóng mặt và choáng váng, có cảm giác đổ sụp xuống bất cứ lúc nào… Tuy nhiên sức mạnh tinh thần đã nâng đỡ ông lão đánh cá gượng dậy tiếp tục chiến đấu và giành chiến thắng. Chiến thắng của ông đã gửi gắm những bài học ý nghĩa, phải luôn tin tưởng vào bản thân, không ngừng nỗ lực, phấn đấu. Đồng thời qua chiến thắng này, tác giả cũng nhằm khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp và sức mạnh của con người.

    Mặc dù chiến thắng con cá kiếm, nhưng ông lão cũng vô cùng thương xót nó, ngợi ca vẻ đẹp anh dũng, hào hùng của nó. Qua những suy nghĩ của ông lão về con cá kiếm tác giả cũng gửi gắm thông điệp: Con người và thiên nhiên có mối quan hệ anh em, dù rằng đôi khi thiên nhiên đột nhiên trở thành kẻ thù số một của con người. Con người dù phải chinh phục tự nhiên nhưng cũng không quên phải yêu mến và sống hài hòa với tự nhiên. Con người cần biết tôn trọng tự nhiên, cũng như tôn trọng kẻ thù nếu muốn giành chiến thắng. Và thừa nhận vẻ đẹp và những hành động không thể khác của đối thủ, của những người xung quanh mình là thái độ cần thiết để giữ thăng bằng trong cuộc sống, tránh nhìn người, nhìn đời một cách phiến diện và để biết cảm thông, chia sẻ với người khác.

    Tác phẩm với tính biểu tượng cao, ngôn ngữ cô đọng hàm súc đã đem đến nhiều thong điệp ý nghĩa. Câu chuyện về ông lão đánh cá không đơn thuần chỉ là câu chuyện của sự mưu sinh mà nó còn là biểu tượng cho vẻ đẹp của ước mơ và biểu tượng cho hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực.

Tóm tắt truyện Ông già và biển cả

Lão chài Xan-chi-a-gô sống cô độc trong một túp lều trên bờ biển ngoại ô thành phố La-ha-ba-na. 84 ngày đêm ra khơi gặp vận xúi, đi đi về vế chẳng câu được một con cá nào. Lần này ông lại ra khơi chỉ có một mình đưa thuyền đến tận vùng Giếng Lớn nơi rất nhiều cá. Buông câu từ sáng sớm, mãi đến non trưa phao câu mới động đậy. Cá mắc câu kéo thuyền chạy. Lão gò lưng, gập mình kéo lại. Từ trưa tới chiểu, rồi một ngày một đêm nữa trôi qua. Bàn tay bị dây câu cứa rách nát ứa máu. Không một mẩu bánh mì vào bụng. Chân tê dại, tay trái bị chuột rút, mệt lả nhưng lão không chịu buông tha: "Mình sẽ cho nó biết sức con người có thể làm được gì và chịu đựng được đến đâu!". Sang ngày thứ 3, cá đuối dần, lão chài dùng lao đâm chết cá, buộc cá vào đuôi thuyền, hân hoan trở về bến. Con cá nặng độ 6 - 7 tấn, dài hơn con thuyền câu của lão độ 7 tấc. Trong màn đêm, đàn cá mập đuổi theo chiếc thuyền câu, lăn xả vào đớp và rỉa con cá kiếm. Lão chài dùng mái chèo quật tới tấp vào đàn cá dữ trong đêm tối. Khi lão Xan-chi-a-gô về tới bến, con cá kiếm chỉ còn trơ lại bộ xương. Lão nằm vật ra lều ngủ thiếp đi, "mơ thấy đàn sư tử". Sáng hôm sau, bé Ma-nô-lín chạy sang lều rồi đi gọi bạn chài đến săn sóc ông lão.

Phân tích hình tượng ông lão trong Ông già và biển cả

Sau 87 (84 + 3) ngày đêm ra khơi đánh cá, ông lão Xanchiagô mới câu được con cá kiếm khổng lồ, nặng độ 6, 7 tấn, dài hơn chiếc thuyền câu khoảng 7 tấc. Đói khát, mệt rã rời, đôi tay bị dây câu do cá kéo cứa rách, ứa máu. Cái giá phải trả cho một chuyến ra khơi thật đáng tự hào. Bạn chài chắc sẽ không chế giễu lão về vận xúi quẩy nữa! Lão càng tự hào về "sức con người có thể làm được gì và chịu đựng được đến đâu!"

   Ở đời có lúc miếng ăn đã kề miệng vẫn còn bị kẻ khác giật mất! Trường hợp lão Xanchiagô mất con cá kiếm quả đúng như vậy. Trên đường giong cá về bến, lão chài lại gặp chuyện chẳng lành. Đàn cá mật đã thục mạng lao vào thuyền lão để đớp mồi. Cảnh "đương đầu với đàn cá dữ" diễn ra vô cùng bi tráng. Lão chài bị bất ngờ, bị động hoàn toàn. Thế và lực quá chênh lệch. Cuộc chiến diễn ra giữa biển đêm. Lão chài chẳng khác nào một kẻ mù giữa vòng vây của đàn cá dữ! Chỉ có một cái chày làm vũ khí. Lão thân cô thế cô, lại bị kiệt sức sau 3 ngày 2 đêm đuổi bắt con cá kiếm mắc câu. Kẻ thù của lão chài là một đàn cá mập đông đảo, khát mồi và cực kỳ hung dữ. Cá lại được màn đêm, được sóng biển che giấu, bất ngờ xuất hiện. Đàn cá biến hóa, lão chài căng mắt nhìn chỉ thấy "những chiếc vi cá mật xẻ dọc ngang trên mặt biển và những đường lân tinh lấp lánh". Những hàm răng cá mập táp mồi "sần sập", lưng đàn cá dữ cuộn sóng làm cho "chiếc thuyền câu chòng chành". Không chỉ con cá kiếm mà ngay cả lão chài cũng sẽ trở thành mồi ngon cho đàn cá dữ đói mồi! Hêminguây đặc tả lưng cá mập đội con thuyền câu đã vẽ nên một cảnh hãi hùng, đầy nguy hiểm!

   Cuộc chiến đấu mỗi lúc một dữ dội. Người đọc có cảm giác là bao nhiêu cá mập ở vùng biển "Giếng Lớn" đã kéo tới bủa vây lấy chiếc thuyền câu. Lão già như bị màn đêm bịt mắt, "vụt nháo nhào lên những chiếc đầu" cá mập. Lão bị động "kháng cự một cách tuyệt vọng với một kẻthù mà lão chỉ nghe bằng tai, bằng cảm giác "Thật bất ngờ cái chày – vũ khí chiến đấu -bị cá dữ ngoạm "giật phắt đi". Lão Xanchiagô đâu phải là kẻ tầm thường, khoanh tay đầu hàng đàn cá mập! Thành quả lao động được làm nên bằng mồ hôi và máu, không thể nào để đàn cá dữ cướp đi. Nhanh nhẹn và dũng mãnh, lão tháo tay lái làm vũ khí chiến đấu. Cuộc chiến giữa người với đàn cá dữ ngày một trở nên dữ dội quyết liệt! Lão già lấy hết sức bình sinh, nắm chắc tay lái, thẳng cánh, vụt túi bụi ra bốn phía". Lão chài bị đàn cá mập khép chặt vòng vây! Đàn cá dữ túm tụm lại đằng sau lái, con nọ tiếp con kia. Khi thì cả bầy một lượt, chúng đâm bổ vào xác con cá. Bầy cá dữ khát mồi không chịu rời chiếc thuyền câu "ngoạm xong một miếng quay ra rồi quay trở lại. Xác cá bị rỉa, bị đớp, bị ngoạm. Những mảnh thịt mà đàn cá mập đớp được" lấp lánh dưới nước!

   Con cá kiếm khổng lồ thế mà giờ đây chỉcòn một ít thịt dính vào đầu! Con cá cuối cùng xông đến đớp vào đầu cá. Có thể nói đây là một hiệp đấu ác liệt, cá và người đánh giáp lá cà. Lão chài dũng mãnh "hoa cái tay lái lên và quật đúng vào răng hàm cá mập". Ông lão giáng trả như vũ bão "quật liên hồi hai bận, ba bận, mười bận!". Bất thình lình chiếc tay lái gẫy rắc, lão dũng mảnh vẫn tiếp tục quật vào đầu cá... vụt nữa làm cho "con cá mập nhả con cá và oằn mình lăn xa".

   Như người lính chiến ngoan cường trên chiến địa, đánh đến giọt máu cuối cùng, bắn đến viên đạn cuối cùng, hết đạn thì dùng lê tử chiến với giặc, lão chài Xanchiagô cũng vậy! Một mình đơn độc chống với đàn cá dữ giữa biển đêm, khi cái chày bịcá mập ngoạm mất, lão bình tĩnh và sáng suốt xử lý tháo ngay tay lái làm vũ khí. Càng đánh càng hăng, lão đã quật tới tấp vào đầu cá dữ, quật mạnh đến nỗi gãy cả mái chèo. Lão đã giáng cho con cá mập sau cùng một đòn chí mạng!

   Việc đánh bắt được con cá kiếm nặng 6, 7 tấn là một chiến công! Cuộc đấu với đàn cá dữ không cân sức, thịt con cá kiếm bị đàn cá mập ngoạm sạch, đớp sạch, nhưng lão vẫn còn giữ được bộ xương cá, giữ được con thuyền câu. Câu nói của lão: "Thuyền của mình vẫn tốt nguyên và chẳng sứt mẻ một tẹo nào, trừ chiếc tay lái ra không kể. Cái đó cũng dễ thay!" -điều đó cho thấy, tuy thất trận nhưng lão chài vẫn còn tiềm lực! Nhất định lão lại ra khơi. Giữ vững niềm tin sau chiến bại không phải ai cũng có ý chí ấy! Lúc quật vào đàn cá dữ, ông lão cảm thấy một mùi kì dị trong mồm: "vừa tanh như sắt, vừa ngòn ngọt". Mùi kỳ dị ấy là máu và cũng là dư vị cay đắng của sự thất bại! Như một sự tổng kết sau trận đánh, lão Xanchiagô nhổ toẹt máu xuống biển và nói: "Cho chúng mày nuốt đi lũ cá mật kia. Nuốt đi để tưởng tượng là vừa giết chết được một con người". Một cái nhổ toẹt đầy khinh bỉ. Một câu nói vừa giễu cợt vừa thách thức kẻ thù! Trong chiến bại mà lão chài vẫn ngạo nghễ! Đó là tâm thế và bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính. Cảnh "đương đầu với đàn cá dữ" được miêu tả rất sống động.

   Lão chài được đặt trong thế đối địch tương phản chênh lệch. Các chi tiết nghệ thuật được khắc họa và tái hiện chủ yếu bằng thính giác, cảm giác, xúc giác... trong biển đêm vô cùng ghê rợn và ác liệt! Người thì máu đầy mồm, cá thì lăn xảvào đớp mồi, bị quật nhừ tử. Lời đối thoại của Xanchiagô với đàn cá mập lúc thì thách thức khinh bỉ, lúc thì thừa nhận thất bại. Vốn liếng còn đó, lão chài rồi lại ra khơi. chỉcó một mình đơn phương độc mã đương đầu với đàn cá mập thế mà sau cuộc chiến, lão chài lại nói: Gió cũng là bạn tốt của ta... đôi khi cũng là bạn tốt... biển cả với những bạn hữu và kẻ thù của ta... "Gió làm căng cánh buồm. Biển có đàn cá dữ, nhưng cũng có cánh chim hiền lành, biển là nơi làm ăn của lão và các bạn chài. Cách nghĩ của lão chài mộc mạc, bình dị nhưng ham sống biết bao.

   Ở đời cái đáng sợ là không nhận diện được kẻ thù. Cái đáng sợ nữa không phải là sự thất bại mà là chưa biết tìm ra nguyên nhân thất bại. Ở đây, lão chài Xanchiagô tự nói với mình: "Ta thử nghĩ xem cái gì đã làm cho ta thất bại nhỉ? Không, không có cái gì cả. Ta đã đi xa quá! Đó là phần ngầm của "tảng băng trôi" mà Hêminguây muốn gửi gắm bạn đọc: Mọi khát vọng đều đẹp, đều đáng yêu. Khát vọng quá lớn, vượt xa khả năng hiện thực thì sẽ thất bại. Hình ảnh lão chài Xanchiagô trong cảnh "đương đầu với đàn cá dữ" này cho ta bài học về sức mạnh, khí phách và niềm tin trong lao động và -cuộc sống.

Cảm nhận truyện Ông già và biển cả

Hê-minh-uê (1899-1961) là nhà văn Mỹ, được giải thưởng Nô-ben về văn học năm 1954. Vốn là phóng viên từng tham gia hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, Hê-minh-uê để lại dấu ấn sâu sắc trên mảng đề tài: những cuộc săn bắt thú. Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai, Ông già và biển cả,v.v... là những tác phẩm của Hê-minh-uê được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

    "Ông già và biển cả" là một truyện vừa, kể lại chuyền ông chài Xan-chi-a-gô trong một chuyến ra khơi may mắn đã đánh bắt được một con cá kiếm khổng lồ. Khi giong thuyền đưa cá về bến thì bị đàn cá mập đuổi theo; lão đã dùng mái chèo, dùng chày chống trả dữ dội. Thuyền cập bến, lão thiếp đi trong căn lều nhỏ. Du khách xúm quanh con thuyền ngắm nhìn con cá kiếm chỉ còn lại bộ xương với cái đuôi tuyệt đẹp.

    Đoạn trích có hai cảnh: 1, cảnh con cá mắc câu vùng quẫy cố thoát trước khi bị phóng lao chết; 2, Cảnh lão chài giong thuyền đưa cá về bến.

    Bước sang ngày thứ ba, khi mặt trời đang mọc thì con cá kiếm mắc câu đang lượn vòng vùng vẫy. Trước cái chết, con cá lượn vòng, làm căng sợi dây câu; con cá "quay tròn" tạo nên những "vòng tròn rất lớn". Xan-chi-a-gô phải "dùng cả hai tay, lắc người, dốc hết lực của cả cơ thể, của chân trụ ra mà kéo". Có lúc lão "phải dốc sức ra mà níu", quyết "khuất phục" con mồi. Hai giờ sau, khi con cá "chậm rãi lượn vòng",các vòng tròn lượn của nó "đã hẹp hơn nhiều", con cá đang ngoi dần lên trong lúc bơi, thì lão chài "mồ hôi ướt dẫm... mệt thấu xương". Mọi cái giá của lao động đối với người câu cá trên biển cả, lúc này, lão chài mới thật thấm thía: hoa mắt, mồ hôi xát muối vào mắt và trán, chóng mặt, choáng váng... "khiến lão sợ". Lão muốn đọc một trăm lần kinh lạy Cha và một trăm lần kinh Mừng Đức Mẹ để cầu mong "Chúa giúp... chịu đựng".

    Khi con cá "quật đột ngột" làm cho sợi dây nẩy mạnh, hình như nó đau quá "cuồng lên", lão chài bèn vốc ít nước biển vỗ lên đầu mình, rồi tì gối vào mũi thuyền, quàng sợi dây lên lưng, lão tự nhủ mình "đứng dậy chiến đấu".

    Biển dậy sóng, gió mậu dịch nổi lên. Con cá lượn vòng, lúc ở mũi thuyền, lúc ở đuôi thuyền, mãi đến vòng thứ ba, lần đầu tiên lão nhìn thấy con cá. Thoạt tiên thấy "một cái bóng đen",... lão thắc mắc hỏi: "Nó không thể lớn như thế được". Nhưng khi con cá trồi lên, lão ngạc nhiên thấy: "Cái đuôi lớn hơn cả chiếc lưỡi hái lớn, màu tím hồng dựng trên mặt đại dương xanh thẫm". Khi nó lặn xuống còn mấp mé mặt nước, ông chài chăm chú nhìn "thân hình đồ sộ và những sọc màu tím trên mình nó. Cánh vi trên lưng xếp lại, còn bộ vây to sụ bên sườn xòe rộng".

    Cuộc đấu giữa người và cá cứ diễn ra giằng co mãi. Cá mỗi lúc một đuối sức dần, nhưng vẫn cố vùng vẫy. Lão chài "toát mồ hôi đầm đìa", tự động viên mình: "Hãy bình tĩnh và giữ sức, lão già ạ". Nhìn thấy lưng con cá đã nhô lên, nhìn thấy cái đuôi đồ sộ cử động, con cá "khẽ nghiêng mình", lão vừa ra sức kéo con cá vào gần thuyền vừa nói: "Ta đã di chuyển được nó... Ta đã di chuyển đượ nó rồi". Một mình giữa biển cả mênh mông, như muốn xua đi nỗi cô đơn, lão "tâm sự" với tay, với chân, với đầu của mình: "Kéo đi, tay ơi...Hãy đứng vững, đôi chân kia. Tỉnh táo vì tao, đầu à. Hãy tỉnh táo vì tao. Bọn mày chưa bao giờ bại trận. Lần này ta sẽ lật được nó".

    Con cá kiếm không chỉ là "đối tượng" săn bắt, không chỉ là "đối thủ" giằng co, mà còn là "bạn", là "người anh em" đối với lão chài. Trước lúc phóng lao, khi miệng "khô khốc", mệt nhoài, khi đã "đuối sức", lão nói với con cá kiếm bằng tất cả tâm tình: "Mày đang giết tao, cá à... Tao chưa bao giờ thấy bất kì ai hùng dũng, duyên dáng, bình tĩnh, cao thượng hơn mày, người anh em ạ. Hãy đến và giết ta đi. Ta không quan tâm chuyện ai giết ai"...

    Cái gì đến thì nhất định sẽ đến. Con cá kiếm mỗi giờ một đuối sức dần. Lúc thì nó "rướn thẳng mình", lúc thì nó "chầm chậm bơi xa", cái đuôi đồ sộ "lắc lư trong không trung", lúc thì nó "chầm chậm bơi xa", cái đuôi đồ sộ "lắc lư trong không trung", lúc thì nó "bơi nghiêng", mõm gần chạm tới mạn thuyền trong "cơn hấp hối". Lão chài buông sợi dây xuống, giẫm chân giữ, nhấc cao ngọn lao, vận hết sức bình sinh phóng lao xuống sườn con cá, ngay sau cái ngực đồ sộ của nó. Con cá kiếm bị trúng lao "rơi sầm xuống làm nước bắn tung trùm lên cả ông lão và con thuyền". Đôi tay lão chài "xây xát"; còn con cá "nằm ngửa phơi bụng ánh bạc của nó lên trời". Biển đổi màu "bởi màu đỏ loang từ tim cá", làn máu đen sẫm loang ra trong làn nước biếc sâu hơn ngàn thước, tựa đám mây. Trên mặt biển, cá trắng bạc và thẳng đơ và bồng bềnh theo sóng".

    Thành quả lao động đã nắm trong tay, trận đấu đã kết thúc, khi mặt trời đã xế trưa. Khát, đói và mệt rã rời. Lão chài phải lấy dây và thòng lọng buộc cá vào cái mấu đằng mũi thuyên, chuẩn bị dựng cột, giong thuyền trở về. Lão say sưa ngắm con cá kiếm: "Da cá chuyển từ màu gốc, màu tía ánh bạc, sang màu trắng bạc và những sọc phô cùng màu tím nhạt... còn mắt nó dửng dưng như những tấm kính trong kính viễn vọng hay như một vị Thánh trong đám rước".

    Giờ đây, lão chài cảm thấy "khoẻ hơn", đầu óc "tỉnh táo". Lão nhìn con cá hơn nửa tấn, nhẩm số tiền bán cá sẽ thu được với giá ba mươi cend một pound. Lão vui sướng tự hào nghĩ "Di Maggio vĩ đại sẽ hào về ta hôm nay". Còn có niềm vui sướng, hạnh phúc nào to lớn hơn niềm vui sướng hạnh phúc của lão chài khi chuẩn bị giong thuyền đưa cá về bến? Đó là cái giá và ý nghĩa của lao động.

    Bữa cơm trưa của lão chài giữa biển khơi tuy đơn sơ mà ngon lành. Toàn đồ tươi sống của hương vị biển. Lão chài bắt vội được hơn mười con tôm nhỏ, lão "rứt đầu rồi nhai gọn cả vỏ lẫn đuôi". Uống vài ngụm nước còn lại trong chai, lão cảm thấy thật dễ chịu. Lão nghĩ đến chuyện lấy nước mặn chữa lành đôi tay chảy máu. Nhìn đám mây tích và dải mây tơ, lão giong thuyền êm xuôi về bến trong làn gió nhẹ.

    Nghệ thuật miêu tả và tự sự của Hê-minh-uê còn ít nhiều làm chúng ta "bỡ ngỡ" nhất là sự đan cài lời độc thoại, độc thoại nội tâm với lời kể. Qua đoạn trích, hình ảnh lão chài và con cá kiếm khổng lồ đã đe lại cho ta nhiểu ấn tượng sâu sắc. Lao động thật sự ỉà bài ca của lòng kiên nhản và tinh thần dũng cảm. Lao động đem đến cho con người bao niềm vui giữa thiên nhiên và biển cả bao la. Chính cái giá của lao động mới làm cho chúng ta thấy rõ hơn ý nghĩa về hạnh phúc mà do bàn tay sáng tạo và lòng dũng cảm đem lại.

    Các nhà lí luận thường nói đến "tảng băng trôi"- ý nghĩa hàm ẩn trong tác phẩm của Hê-minh-uê. "Ông già và biển cá" đem đến vinh dự giải thưởng Pu-lit-ze (1953) cho tác giả, nó là một ẩn dụ ca ngợi ý chí, tính kiên nhẫn, sức mạnh và lòng dũng cảm của con người trong lao động và khám phá thiên nhiên. Nó đã khơi dậy trong lòng mỗi chúng ta bao ý nghĩ tốt đẹp về con người và lao động, về con người và thiên nhiên.

Nguyên lý tảng băng trôi truyện Ông già và biển cả

Hê-Minh-Uê đã sử dụng một hình ảnh nổi tiếng để nói về phương pháp viết của ông , đó là phương pháp "tảng băng trôi" : 7/8 chìm dưới nước, chỉ 1 phần nổi lên trên cho mọi người nhìn thấy. Hình ảnh ấy chẳng những minh họa cho phong cách Hêminhuây mà nó còn đưa ra một cách tóm tắt yêu cầu đối với một áng văn chương thật sự có giá trị, đặc biệt đối với độc giả của thế kỉ XX.

   Truyện đòi hỏi một sự đồng sáng tạo tích cực của người đọc. Mỗi người đọc theo các cấp độ khác nhau sẽ khám phá được những tảng ngầm của "tảng băng trôi" – tác phẩm văn chương. Hình ảnh này của Hêminhuây thật ra đã được một thuật ngữ lí luận gợi lên : đó là mạch ngầm văn bản.

   Dưới vẻ trần trụi , thô sơ, rõ ràng bên ngoài, tác phẩm của ông ẩn giấu những tầng sâu kín, đa nghĩa và đầy chất thơ. Thoạt nhìn , ngôn từ ở đây thường rất ngắn gọn và đơn giản , điều này đặc biệt thể hiện qua 1 loại ngôn từ mà người ta coi là sở trường của ông, ngôn ngữ đối thoại. Người ta ví lối văn chương đối thoại của Hêminhuây với những băng ghi âm hoặc nói đến lối văn điện tín. Đối thoại rời rạc, khó hiểu ấy không đơn giản chỉ hứng thú của nhà văn, mà thường gắn bó với kiểu nhân vật Hêminhuây: họ không trần tình, bộc lộ tâm tư mà thường khi lại giấu kín nó.

   Muốn hiểu hết đối thoại của nhân vật Hêminhuây, nhiều khi phải đọc cả những im lặng và nhập hẳn vào văn cảnh của họ nữa. Huống chi nhà văn thường ẩn mình, không giải thích , bình luận nhiều về nhân vật, nên có những câu đối thoại gần như hoàn toàn thuộc về phần chìm của "tảng băng trôi"

   Phần nổi của "tảng băng trôi" trong "Ông già và biển cả"

   Đó là những gì nhìn thấy được: Văn bản ngắn gọn, đơn giản.

   Qua lượng ngôn từ hạn hẹp chuyển tải những lớp nghĩa hết sức sâu xa. Nhà văn Macket nhận xét : "Những gì Hêminhuây viết trong khoảng 100 trang sách đó những nhà văn khác có thể biến thành 1 cuốn tiểu thuyết dày hàng nghìn trang".

   Nhân vật số lượng cũng không nhiều, cũng là tác phẩm đơn giản về hoạt động câu cá cũng là sự giản lược về cốt truyện. Tác phẩm có khoảng 100 trang (khoảng 27000 từ).

   Phần chìm của "tảng băng trôi" trong "Ông già và biển cả".

   Các tầng ý nghĩa khai thác được. Theo Lê Huy Bắc có 3 cách hiểu về "Ông già và biển cả":

   Đọc tác phẩm theo triết lí về cái bi đát của các nhà văn hiện sinh. Tác giả dường như muốn khẳng định cuộc đời của con người là một cuộc hành trình mệt nhọc và chẳng bao giờ tới đích nên ông lão dù có câu được con cá kiếm, chiến thắng nó cũng chẳng mang được nó vào bờ.

   Khi ông lão mang bộ xương vào bờ, người thấy được giá trị của nó là cậu bé cái mà người hướng dẫn viên du lịch không hiểu được => Cái có giá trị với người này lại trở nên vô giá với người khác. "Không phải tôi không muốn bi kịch hóa cuộc đời nhưng mỗi lần ta yên tâm về một việc gì đấy thì đó là dấu hiệu của 1 dấu hiệu của 1 sự thảm bại".

   Theo cái nhìn tiến bộ của các nhà phê bình Mácxit: "Đây là cuộc chiến của con người chống lại số phận" . Khi con người nỗ lực phấn đấu thì sẽ không bị khuất phục.

   Gs. Phùng Văn Tửu nhận xét "Tác phẩm miêu tả cuộc vật lộn gay gắt của con người vs thiên nhiên đầy chân thực từ đó nâng lên thành tầng ý nghĩa thứ 2: nêu bật cái quyết liệt, tàn bạo của đời sống và khả năng chống trả của con người"

   Đặng Anh Đào nhận định "Santiago giống như bức tượng về cuộc đấu tranh của con người hiện đại trên thế giới này"

   Phong Lê lại đánh giá "Ông già và biển cả" ở góc độ tố cáo hiện thực xã hội, xem ông lão như 1 người lao động cực nhọc, vất vả.

   Con cá kiếm là thành quả lao động nhưng lại bị bọn cá mập cướp đi (bọn cá mập đồng nghĩa vs bọn tư sản bóc lột người lao động) : "Ta có thể thấy đâu đó thấp thoáng bóng dáng 1 xã hội loài người đầy rấy những bất công trong loài người với nhau. Trong xã hội ông già đang sống, đất liền kia cũng có bao nhiêu đàn cá mập hung hãn và tham lam không kém. Nó đang ngồi dưng ăn bám, cướp không bao nhiêu của cải, mồ hôi nước mắt của người dân lao động.

   Đọc tác phẩm từ góc độ mĩ học

   Theo Lê Huy Bắc: Ông lão là nhân vật đẹp (đẹp ở cả ý chí và khát vọng) => Bi kịch của cái đẹp: Sự nỗ lực đó không đem lại kết quả gì cả, con cá kiếm rõ ràng là 1 đối thủ đẹp của ông lão cuối cùng cũng bị chính ông lão tiêu diệt và trở thành chiến tích thảm thương vì không ai hiểu giá trị của nó.

   Hành động đuổi theo con cá là hành động thể hiện khát vọng của con người vươn đến cái đẹp, cái lớn lao hơn mặc cho kết quả lại là 1 bi kịch. "Cái tốt đẹp chẳng bao giờ bền lâu"

   So sánh công việc câu cá với nghề viết văn ta cũng thấy được sự tương đồng giữa chúng:

   Câu cá cần sức lực, viết văn cần công lao. Mục đích hướng đến 1 bên là câu được cá, kiếm được tiền còn bên kia là phấn đấu hoàn thành tác phẩm tuyệt vời. Lão đánh cá kì vọng vào 1 con cá lớn, còn nhà văn chờ đợi 1 tác phẩm hay , có giá trị. Đôi khi kết quả mang về lại là một bộ xương khô hay 1 tác phẩm không như ý muốn. Bộ xương cá cũng có người hiểu được (cậu bé Mandoli ) cũng có người không (người hướng dẫn du lịch) và công việc viết văn cũng vậy: số người hiểu được đón nhận tác phẩm đôi khi không nhiều bằng số người không hiểu, thờ ơ.

   Những yếu tố hỗ trợ cho nguyên lí "tảng băng trôi"

   Độc thoại: Tác giả nhường lời cho nhân vật để khắc họa hình tượng nhân vật ngoài biển khơi, thủ pháp nhường lời cho nhân vật. Khi lời độc thoại lấn át lời kể có nghĩa là tác giả để nhân vật tự lên tiếng, tự bộc lộ. "Lão tự nhủ, lão nghĩ, lão cho rằng….." người kể chuyện tỏ ra lạnh lùng, khách quan, không lồng vào đó dòng suy nghĩ nào mà đánh giá, nhận xét chuyển sang phía người đọc.

   "Cái đẹp thì chẳng bao giờ tồn tại được lâu"

   Nghĩa đen: con cá quá lớn không thể mang lên thuyền và rồi bọn cá mập cũng xơi mất.

   Nghĩa bóng : Khi ôm ấp khát vọng quá lớn thì khó có thể thực hiện được.

   Đối thoại: Trong tác phẩm lời đối thoại rất ít.

   Hình tượng nhân vật: 2 nhân vật chính trái ngược nhau

   Ông lão: vừa là người chiến thắng, vừa là kẻ thua cuộc.

   Cậu bé Mandoli: gắn với quá khứ đẹp đẽ của ông lão, gợi nhớ về thời trai trẻ của ông lão mạnh mẽ, sôi nối => là sự tiếp nối của ông lão .

   Tính biểu tượng:

   Ông lão Santiago: ( Sant – ông thánh -> gợi liên tưởng đến chúa Giesu :tay chân trầy xước, rướm máu, lúc thuyền lên bờ ông lão tháo cột buồm nặng nhọc vác trên vai giống biểu tượng chúa trên thánh giá): Ông lão là biểu tượng của con người phi thường chống lại định mệnh.

   Con cá kiếm : tượng trưng cho những khó khăn , thử thách của con người, của tự nhiên; Nó là thành quả lao động của con người, là khát vọng lí tưởng của con người, đồng thời là biểu tượng của cái đẹp.

   Đàn cá mập: tượng trưng cho những khó khăn, thử thách ngáng trở con đường vươn đến lí tưởng của con người. Nó là biểu tượng của cái xấu, cái tồi tệ, cái đáng lên án. Bọn tư sản chỉ biết cướp bóc không thành quả lao động của người lao động nghèo.

   Biển: Một môi trường đầy khó khăn, thử thách. Biển là mẹ thiên nhiên kì vĩ, chứa đựng những khát vọng lớn lao của con người.

Ý nghĩa nguyên lý tảng băng trôi truyện Ông già và biển cả

Ơ-nít Hê-minh-uê là nhà văn Mĩ để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong văn xuôi hiện đại phương Tây góp phần đổi mới lối viết truyện và tiểu thuyết của nhiều thế hệ nhà văn trên thế giới. Phong cách của ông giản dị, trong sáng và ẩn chứa nhiều triết kí sâu xa về thế giới tự nhiên, con người, chất liệu sống ấm áp kết hợp với thủ pháp độc thoại nội tâm, tình huống biến hóa căng thẳng, đa thanh, đa nghĩa mà ông gọi là nguyên lí tảng băng trôi.

   Đoạn trích "Ông già và biển cả" kể chuyện ông già chinh phục con cá kiếm trên biển cả mênh mông. Câu chuyện thật đơn giản nhưng lại gợi mở nhiều tầng ý nghĩa cho người đọc. Người đọc tự suy ngẫm để rút ra hàm ý sâu sắc sau câu chữ và đồng sáng tạo với nhà văn.

   Lớp nghĩa thứ nhất là một cuộc tìm kiếm con cá lớn nhất, hẹp nhất trong đời đi câu của ông già và cuộc hành trình nhọc nhằn, dũng cảm của người lao động trong một xã hội vô tình. Đó là một phần nổi của nguyên lí.

   Ở lớp nghĩa thứ hai, chuyện ông già và con cá kiếm không đơn thuần là mối quan hệ giữa một ông lão đi câu với một con mồi mà qua lối độc thoại có tính đối thoại giữa ông già và con cá kiếm, người đọc có thể nhận thấy mối quan hệ lớn hơn: Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên luôn là đối thủ xứng đáng, đó là cuộc chiến không cân sức. Nhưng dù thiên nhiên có hung dữ tới đâu thì con người nhỏ bé, giày ý chí kia vẫn có thể giành để chiến thắng.

   Hình tượng ông già chinh phục con cá là biểu tượng của người anh hùng trên biển cả thôi không khát vọng, ngược lại hình tượng con cá kiếm cũng là biểu tượng kì vĩ cho cái đẹp, cho sức mạnh man dại của tự nhiên. Chiếm lĩnh được nó, con người không chỉ có sức mạnh mà còn có trí khôn, lòng quả cảm mới có thể giành chiến thắng.

   Ở lớp nghĩa thứ ba, tùy thuộc vào người đọc đồng sáng tạo, có thể suy rộng ra, đó cũng là thể nghiệm về thành công và thất bại của người nghệ sĩ đơn độc theo đuổi ước mơ sáng tạo, rồi trình bày trước mắt người đời, cũng gặp biết bao sóng gió, cam go như hình tượng ông già đối mặt với biển cả, biển đời. Và trên đường đời của bất cứ ai, người ta đều phải trả giá cho sự thành bại của mình. Nhưng cho dù ở bất kì hoàn cảnh nào, con người vẫn không thôi khát vọng.

   Với lớp nghĩa thứ hai và thứ ba này chính là bảy phần chìm trong nguyên lí tảng băng trôi mà nhà văn gửi gắm đến tác phẩm. Người phương Đông gọi đó là tính hàm súc, hàm ẩn, ý tại ngôn ngoại trong văn chương.

Nguồn: vietjack