Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Văn mẫu: Hoàng Lê nhất thống chí

Gửi bởi: Nguyễn Thị Ngọc 29 tháng 10 2019 lúc 9:19:46


Mục lục
* * * * *

Dàn ý Phân tích Hồi 14 Hoàng lê nhất thống chí hay nhất 

1, Mở bài:

   - Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

   + Ngô gia văn phái: một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì. Tác phẩm do Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du viết, trừ ba hồi cuối chưa rõ tác giả.

   + Hoàng lê nhất thống chí: là một tác phẩm văn xuôi ghi chép bằng chữ Hán lớn nhất trong văn học Việt Nam trung đại, có tính chất của tiểu thuyết chương hồi, nói về thời kì cuối nhà Lê đầu nhà Nguyễn.

   + Văn bản trong sgk là hồi thứ 14 của tác phẩm.

2, Thân bài:

a, Hoàn cảnh giặc Thanh xâm lược và sự đối phó của nghĩa quân

   - Miêu tả đội quân của nhà Thanh:

   + Quân đội đông, hùng hậu, sĩ khí ngút trời, “Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa ải, xuyên rừng vượt núi như giẫm đất bằng, ngày đi đêm nghỉ, không phải lo lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như vào chỗ không người”

   + Quân đội nhà Thanh đông, tinh nhuệ nhưng hợm hĩnh, chủ quan, hưởng lạc ngủ quên trên chiến thắng: “quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không có kỷ luật gì cả”, còn tướng quân thì cũng “ngày ngày chơi bời tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân”.

   + Được cung nữ phủ Trường Yên cảnh báo về Nguyễn Huệ nhưng cả bọn cũng chỉ biết quát chửi nhau và vẫn ung dung ngồi “tính toán chu đáo”, dự định sang xuân mới tính kế với Nguyễn Huệ

⇒ Sử dụng biện pháp đối lập, đòn bẩy: miêu tả cái hùng mạnh oai phong trước làm nền bật lên sự nhu nhược, tham lam, lười biếng, khinh suất của quan quân nhà Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống.

   - Nghĩa quân Tây Sơn của vua Quang Trung:

   + Sự ứng phó nhanh nhẹn, kịp thời: sau khi biết tin, Nguyễn Huệ lên ngôi vua và thu xếp việc trong 1 tháng, 25 tháng chạp xuất quân, 29 âm lịch tới Nghệ An chiêu mộ thêm binh sĩ, 30 âm lịch mở tiệc khao quân ăn tết sớm, và đúng mùng 5 tháng giêng, sau chiến thắng Ngọc Hồi Đống Đa, Nguyễn Huệ giữ đúng lời hứa chiến thắng với quân sĩ.

   + Tinh thần của quân sĩ: tất cả đều nghiêm trang chỉnh tề, “một lòng một chí quyết chiến quyết thắng”.

⇒ Thủ pháp đối lập, đòn bẩy lần nữa phát huy tác dụng: tả quân Thanh trước để làm bật lên sự thần tốc, anh hùng của quân đội Quang Trung; làm bật lên hình ảnh vua Quang Trung anh dũng, khiêm tốn mà thu phục lòng người, bản lĩnh, yêu nước.

b, Thắng lợi của quân khởi nghĩa

   - Sự tự tin, tài mưu lược của người cầm quân: Quang Trung tin vào một thắng lợi của chính nghĩa, truyền cảm hứng cho quân đội của mình; ông đích thân chỉ huy đội quân tiên phong, anh dũng, quyết đoán.

   - Dũng khí của quân khởi nghĩa: sức mạnh tinh thần, tuy thô sơ ít ỏi về quân lực và vũ khí, chỉ dùng gậy gộc cuốc thuổng mà đánh bại được súng ống.

   - Những trận đánh với thắng lợi rực rỡ thể hiện tài binh lược của Quang Trung:

   + Đánh ở sông Gián, sông Thanh Quyết, quân Lê Chiêu Thống và quân Thanh thấy bóng dáng quân đội Quang Trung từ xa đã tự bỏ chạy, bị bắt sống.

   + Trận Hà Hồi, dùng tinh thần uy hiếp tinh thần khiến giặc sợ hãi, không tốn một binh lính cũng chiếm được đồn.

   + Trận Ngọc Hồi: quân giặc chống cự yếu ớt rồi thua, tướng giặc chạy vội “Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp”.

⇒ lời kể ngắn gọn, bình dị càng làm tăng sự thần kì của chiến thắng

c, Nhận xét về nghệ thuật

Thành công trong sử dụng các hình ảnh đối lập, thủ pháp đòn bẩy: tả quân Thanh trước, tả quân đội Quang Trung sau.

   - Thành công trong xây dựng hình tượng nhân vật Quang Trung và nghĩa quân.

   - Lối kể chuyện chân thực, không khoa trương.

3, Kết bài:

   - Tác phẩm tái hiện lại một thời kì lịch sử một cách chân thực.

   - Thể hiện tinh thần vì nghệ thuật của các tác giả: dù theo nhà Lê, phò vua Lê nhưng vẫn thừa nhận và khâm phục tài năng của anh hùng Quang Trung.

Phân tích Hồi 14 tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí

"Hoàng Lê nhất thống chí" của nhóm tác giả Ngô gia văn phái từ lâu đã được xem là cuốn sách lịch sử đặc biệt quan trọng, là cuốn tư liệu quí giá cho các nhà sử gia nước nhà. Tuy nhiên, vượt ra khuôn khổ giá trị của cuốn sách lịch sử thông thường, tác phẩm còn mang một giá trị văn chương hay, độc đáo, rất tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi. Toàn bộ tác phẩm gồm có mười bảy hồi. Đó là một chuỗi câu chuyện lịch sử dài, với biết bao nhiêu là những biến cố thăng trầm, đầy dữ dội, đau thương, đẫm máu và nước mắt của các triều đại phong kiến Việt Nam từ ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII đến mấy năm đầu thế kỉ XIX; từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa cho đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà, lật đổ triều đại Tây Sơn, lập nên triều đại Gia Long – nhà Nguyễn. Trong tác phẩm, tiêu biểu có Hồi thứ mười bốn: "đánh Ngọc Hồi quân Thanh thua trận. Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài", là một trong những phần hay nhất của tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí". Tác giả đã dựng lên bức chân dung về người anh hùng áo vải dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh và tái hiện sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống một cách chân thực, sinh động.

   Có thể nói, dưới ngòi bút của nhà văn, người đọc như đang sống lại những giờ phút đau thương của lịch sử dân tộc khi mà vào cuối năm Mậu Thân 1788, đầu năm Kỉ Dậu 1789, vua Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị chiếm được thành Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở phải tạm thời rút lui về Tam Điệp để phòng thủ. Đứng trước vận mệnh lịch sử Việt Nam "ngàn cân treo sợi tóc", Nguyễn Huệ hiện lên như một vị cứu tinh chói lọi của dân tộc ta. Nhận được tin báo Nguyễn Huệ giận lắm, "định thân chinh cầm quân đi ngay". Chỉ trong vòng hơn một tháng trời, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc: Ngày 25 lên ngôi hoàng đế, "tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi", rồi đốc thúc đại quân tiến ra Bắc; ngày 29 tới Nghệ An, nhà vua cho tuyển thêm quân sĩ và mở một cuộc duyệt binh lớn, thu nạp được hơn một vạn quân tinh nhuệ; sau đó đưa ra lời phủ dụ, vạch rõ âm mưu và sự tàn độc của quân xâm lược phong kiến phương Bắc, nêu cao truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc và đưa ra lời hiệu triệu kêu gọi các quân sĩ "đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn". Lời phủ dụ như sấm truyền bên tai, như một lời hịch mang âm hưởng vang vọng của sông núi, kích thích lòng yêu nước và truyền thống anh hùng của dân tộc. Chưa dừng lại ở đó, nhà vua còn hoạch định kế hoạch hành quân "lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đánh đuổi được người Thanh" rồi chia quân sĩ ra làm năm đạo". Hôm đó là ngày 30 tháng chạp, vua cho tổ chức mở tiệc khao quân , hẹn đến ngày mồng bảy năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng...Qua đó, ta thấy vua Quang Trung - Nguyễn Huệ hiện lên là một con người có hành động mạnh mẽ, xông xáo, có trí tuệ sáng suốt trong nhận định tình hình địch ta và là người biết nhìn xa trông rộng, chưa thắng nhưng nhà vua đã nghĩ tới quyết sách ngoại giao, kế hoạch hòa bình trong mười năm tới.

   Tác giả đã mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa diễn ra: "Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỉ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vảo mặt hắn. Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét". Lời nhận xét đó không phải là không có căn cứ. Điều này được thể hiện rất rõ, rất chân thực, cụ thể trong cuộc điều binh khiển tướng trực tiếp của nhà vua. Trong chiến trận, vua Quang Trung hiện lên oai phong, lẫm liệt, có tài thao lược hơn người. Có thể nói dưới bàn tay chỉ huy của nhà vua, quân đi đến đâu, giặc bị tiêu diệt tới đó. Lúc đi đến sống Gián và sông Thanh Quyết, toán quân Thanh vừa trông thấy bóng nhà vua đã "tan vỡ chạy trước"; tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc vua lặng lẽ cho vây kín làng rồi dùng mưu bắc loa truyền gọi khiến quân Thanh "ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết"; sáng mùng 5 tết tiến sát đồn Ngọc Hồi, đề phòng trước mũi súng của giặc, vua Quang Trung đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, theo sau là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ "nhất" tiến thẳng vào đồn. Vì thế, súng giặc bắn ra đều vô tác dụng. Nhân có gió bắc, quân Thanh dùng súng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, hòng làm quân ta rối loạn, không ngờ bỗng trời trở gió nam ngược lại, thành ra quân Thanh tự hại mình. Trước tình thế nghìn năm có một ấy, nhà vua liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che, xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất cứ nấy dao ngắn thủ sẵn trong tay áo mà chém. Kết quả, quân Thanh "thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại". Thừa thắng xông lên, vua Quang trung lẫm liệt, oai phong cưỡi voi tiến vào giải phóng thành Thăng Long vào trưa ngày mùng 5 tết Kỉ Dậu – trước kế hoạch hai ngày. Giặc bỏ chạy, vua cho phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, vây quân Thanh ở Quỳnh Dô, giặc chạy xuống đầm Mực, cuối cùng bị quân Tây Sơn " lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người".

   Nhà văn đã tả thật chi tiết, sinh động sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận nhục nhã, bi đát của bọn vua quan phản nước hại dân bằng một giọng điệu vừa ngậm ngùi xót xa, lại vừa mạnh mẽ, tự hào. Vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo quân vào thành. Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở Thăng Long chỉ chăm chú vào ngày tết, yến tiệc vui mừng, không lo chi đến việc bất trắc. Ngược lại, quan quân ta mạnh mẽ như hổ báo, thế như chẻ tre, như "tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên". Vì bị đánh úp bất ngờ, không có chuẩn bị, Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ nhằm hướng bắc mà chạy; Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự vẫn; quân sĩ nhà Thanh đều "hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa". Còn số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước hại dân Lê Chiêu Thống cũng phải chịu cảnh nhục nhã của kẻ vong quốc. Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ thân tín "đưa thái hậu ra ngoài", bỏ chạy, cướp cả thuyền dân để qua sống, may được người thổ hào giúp cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi " cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt", sau này phải cạo đầu tết tóc như người Mãn Thanh...

   Đến đây, chúng ta mới thấy hết được tác giả Ngô gia văn phái là những con người tôn trọng lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan. Mặc dù, họ vốn dĩ là cựu thần nhà Lê, ăn bổng lộc triều Lê, không có thiện cảm với quân Tây Sơn, thậm chí xem Tây Sơn như là kẻ thù, nhưng họ vẫn viết về Quang Trung và những chiến công của đoàn quân áo vải một cách thật hả hê, mạnh mẽ, tự hào. Điều đó có được là do ý thức dân tộc của những trí thức có lương tri, lương tâm. Họ đã thấy được những cái hạn chế, sự thối nát, hèn mạt của nhà Lê và dã tâm xâm lược độc ác, hống hách của quân Thanh nên họ không thể đứng đó mà ngoảnh mặt làm ngơ được. Qua đó, chúng ta cảm thấy thật tâm phục, khẩu phục trước ý thức, trách nhiệm và tình yêu đất nước dân tộc của nhóm tác giả Ngô gia văn phái.

   Đoạn trích "Hồi thứ mười bốn" trong "Hoàng Lê nhất thống chí" là một đoạn trích hay, độc đáo, có nhiều thành công về mặt nghệ thuật: kể tả đan xen rất sinh động, cụ thể, gây được ấn tượng mạnh; giọng điệu biến đổi linh hoạt, phù hợp với từng đoạn văn, từng hoàn cảnh lịch sử. Cảnh tháo chạy của quân tướng nhà Thanh được miêu tả dưới cái nhìn hả hê, mãn nguyện của người thắng trận trước sự thất bại thảm hại của kẻ thù cướp nước: âm hưởng nhanh, dồn dập, gợi sự tán loạn, tan tác. Cảnh bỏ chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả dài hơn, âm hưởng chậm, toát lên vẻ chua xót, ngậm ngùi... Đặc biệt sự thành công nổi bật trong đoạn trích là nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật với đầy đủ diện mạo tới bản chất: Tôn Sĩ Nghị ( tướng nhà Thanh) thì kiêu căng, ngạo mạn, khi bị quân Tây Sơn đanh đến thì "sợ mất mật" hèn hạ dẫn quân bỏ chạy; vua Lê Chiêu Thống hiện lên là con người ích kỉ, vì lợi ích dòng họ mà trở thành kẻ phản động, đớn hèn, nhục nhã cướp cả thuyền dân mà bỏ chốn; Còn vua Quang Trung – nhân vật chính trong truyện lại hội tụ biết bao phẩm chất của một người anh hùng "văn võ song toàn", đầu đội trời chân đạp đất... Tất cả đã hòa với nhau làm một, tạo nên sự thành công tuyệt vời của một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối chương hồi.

   Khép lại đoạn trích "Hồi thứ mười bốn" người đọc thấy được những âm mưu tàn ác của quân xâm lược phương Bắc đối với dân tộc ta. Đồng thời, qua đoạn trích ta càng cảm thấy tự hào hơn về truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc Việt Nam, thấm thía và biết ơn sâu sắc những con người anh hùng, trong đó có nhà vua, nhà quân sự tài ba Quang Trung – Nguyễn Huệ.

Dàn ý Cảm nhận của em về người anh hùng Quang Trung qua Hồi 14 hay nhất

1, Mở bài:

Giới thiệu đoạn trích và nhân vật:

    - Đoạn trích: là hồi thứ 14 của cuốn tiểu thuyết chương hồi “Hoàng Lê nhất thống chí”; miêu tả chiến thắng của quân đội Quang Trung trước nhà Thanh và tàn quân Lê Chiêu Thống.

    - Nhân vật Quang Trung: được miêu tả chân thực, khách quan với nhiều phẩm chất anh hùng.

2, Thân bài:

a, Hình ảnh Quang Trung trước khi tiến quân vào Thăng Long:

    - Một lòng yêu nước, lo lắng cho dân: khi nghe tin giặc kéo vào Thăng Long đã rất tức giận, chỉ muốn ngay lập tức tiến đánh, nhưng không cả giận mất khôn, không hấp tấp mà tính toán việc chu đáo:

    + Ông quyết định lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung: nếu không lên ngôi, việc tiến quân ra Bắc sẽ không danh chính ngôn thuận là đưa quân đánh kẻ xâm lược và bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống, mà chỉ như một đội quân phản vua Lê; đó là việc “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, nhận được sự ủng hộ của nhân dân.

    - Có phẩm chất cùng lí tưởng cao cả, chiêu mộ binh sĩ bằng sự chân thành:

    + Ông chỉ ra rõ quân địch ở trước mắt: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”, ấy là lũ giặc phương Bắc, không cùng dòng máu, chỉ tới để xâm lược cướp bóc, không phải để bảo vệ triều đại của vua Lê.

    + Đưa ra lời chiêu mộ binh sĩ vừa chân thành, đề cao tinh thần yêu nước, vừa nghiêm khắc, thể hiện khả năng và uy quyền của mình: đưa ra những tấm gương yêu nước, chiến đấu chống giặc không ngại hi sinh thân mình; cảnh cáo việc “ăn ở hai lòng” sẽ bị trừng phạt.

    - Trí tuệ, sáng suốt, tỉnh táo:

    + Sáng suốt trong phân tích tình hình, trong việc dùng người: không trách hai tướng Sở và Lân vì rút quân bỏ thành, còn ngợi khen họ vì biết nhìn nhận tình hình ta yếu địch mạnh; đánh giá cao Ngô Thì Nhậm, sử dụng tài trí của ông để dẹp giặc mà không mất nhiều binh đao.

    - Là người mưu lược, có tài năng quân sự, nhìn xa trông rộng:

    + Ông quyết định tiến công dẹp giặc Thanh phải thần tốc: từ lúc xuất phát cho tới khi đuổi được giặc là 10 ngày; không chờ qua tết mà tiến công luôn, mở tiệc khao quân vào 30 tháng chạp cổ vũ tinh thần binh sĩ, nói chắc rằng chiếm lại được thành sẽ ăn tết sau.

    + Liệu trước mọi việc: bàn trước với Ngô Thị Nhậm về quyết sách ngoại giao mềm mỏng với nhà Thanh, vì e ngại nước lớn thua trận sẽ thù hằn, tiếp tục động binh đao.

    + Quan quân trên dưới một lòng, nghiêm chỉnh, kỉ cương trái ngược hoàn toàn sự vô phép tắc, thiếu tôn ti trật tự của quân đội nhà Thanh và tàn quân nhà Lê: càng thể hiện tài lãnh đạo của Quang Trung.

b, Hình ảnh Quang Trung trong những trận chiến với quân xâm lược, bán nước:

    - Tài cầm binh của Quang Trung và sức mạnh của quân đội Tây Sơn đã được ca ngợi là “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”.

    - Ông lãnh đạo tài tình: đánh trận nào thắng trận ấy, cưỡi voi xông lên trước lấy tinh thần cho binh sĩ ⇒ oai phong lẫm liệt.

    + Đánh ở sông Gián, sông Thanh Quyết: quân giặc bỏ chạy, bị bắt sống.

    + Đánh trận Hà Hồi: không tốn sức cũng chiếm được đồn.

    + Đánh trận Ngọc Hồi: ông cho quân lấy ván ghép phủ rơm đã tẩm ướt nước để tránh được hỏa công của địch; đội quân của ông hầu hết là nông dân không quen trận mạc, họ chiến đấu với tinh thần quả cảm, hi sinh vì đất nước “ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau nhất tề xông tới”

⇒ Chính vị tướng “anh hùng áo vải” Quang Trung vừa mộc mạc, giản dị, vừa kiên cường, mưu lược ấy đã cổ vũ tinh thần chiến đấu của binh sĩ, đã giành chiến thắng nhờ biết đoàn kết nhân dân, biết bài binh bố trận.

c, Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

    - Sử dụng những tính từ, động từ thể hiện sự quyết đoán, mưu lược.

    - Giọng miêu tả và kể chuyện dù mang tính khách quan nhưng vẫn không giấu được lòng khâm phục của tác giả đối với Quang Trung

⇒ Xây dựng một hình ảnh Quang Trung vừa chân thực qua cuộc hành quân và đánh giặc, vừa được thần thánh hóa như một vị tướng nhà trời qua những hình ảnh cưỡi voi thúc giục, áo bào đỏ nhuốm màu đen của thuốc súng, qua lời kể của cung nữ.

3, Kết bài:

    - Qua đoạn trích ta thấy nhân vật Quang Trung: anh hùng, có tài mưu lược, tài dùng người, có tình yêu nước, ý chí kiên cường, là một vị vua sáng suốt.

    - Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi: sử dụng ngôn ngữ kể và tả sống động, thể hiện sự cảm phục của tác giả.

Dàn ý Cảm nhận về người anh hùng Quang Trung hay nhất

I. Mở bài

Giới thiệu tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ 14, là tác phẩm có giá trị văn học sử học sâu sắc

- Dẫn dắt vấn đề: Hình tượng Quang Trung Nguyễn Huệ oai phong, trí dũng đích thân cầm quân thần tốc tiến ra Bắc dẹp tan quân giặc Thanh.

II. Thân bài

Hoàn cảnh lịch sử bấy giờ: Các tập đoàn phong kiến sa đọa, thối nát cực độ. Sự tranh giành quyền lực diễn ra quyết liệt, dữ dội

    + Vua Lê Chiêu Thống hèn hạ cầu cứu quân Mãn Thanh. Nguyễn Huệ biết tin, vô cùng nổi giận, lên ngôi và tiến quân ra bắc dẹp giặc

- Vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ

    + Là người hành động dứt khoát, mạnh mẽ

    + Nghe tin giặc đến chiếm thành Thăng Long, ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”

    + Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ làm được nhiều việc lớn: lên ngôi, tuyển quân, dẫn binh...

- Có trí tuệ nhanh nhạy, sáng suốt

Khi quân Thanh hùng hổ kéo quân vào nước ta, thế giặc đan mạnh, tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc” Nguyện Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế để chính danh vị, lấy niên hiệu là Quang Trung, ra lời hiệu dụ động viên khích lệ tướng sĩ...

    + Ý chí quyết chiến quyết thắng, tầm nhìn xa trông rộng

    + Tài dùng binh như thần, tài thao lược hơn người

- Nhận định được sức mạnh, điểm yếu của quân ta, biết cách dùng người...

    + Lẫm liệt trong chiến đấu

Cưỡi voi xông vào trận chiến chỉ đạo quân binh, nổi bật hình ảnh oai phong lẫm liệt với tư thế làm chủ trận chiến....

- Thái độ của tác giả đối với nhân vật:

Mặc dù mang tư tưởng chính thống, trung thành với nhà Lê, nhưng với thái độ tôn trọng lịch sử và ý thức dân tộc cao nên nhóm tác giả Ngô gia văn phái làm nên những trang viết chân thực, sinh động về người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Thể hiện nhân vật dưới góc nhìn khách quan của người viết sử để làm nổi bật hình ảnh con người có tâm, có tầm, trí tuệ sáng suốt ,biết nhìn xa trông rộng

    + Nhân vật được khắc họa chủ yếu qua lời nói và hành động, từ cách nói chuyện với kẻ bề dưới cho thấy được tấm lòng muốn chiêu mộ người tài, và quyết tâm đồng lòng cùng tướng sĩ giệt giặc bảo vệ đất nước.

III. Kết bài

Nguyễn Huệ là tượng đài bất hủ tiêu biểu cho vẻ đẹp quật cường của dân tộc và tinh thần tự chủ của nước ta, điều này tạo cảm hứng cho nhóm tác giả Ngô Thì ghi lại những trang văn sử bất hủ

Cảm nhận về người anh hùng Quang Trung trong Hoàng lê nhất thống chí 

Nguyễn Huệ, vị chiến tướng dùng kì mưu hạ thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ, vị thống tướng đã tiêu diệt ba vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm - Xoài Mút trong một trận thủy chiến trời long đất lở. Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đã đạp đổ ngai vàng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài rồi kết duyên cùng công chúa Ngọc Hân làm chấn động Bắc Hà. Nguyễn Huệ- vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược, xây nên Gò Đống Đa lịch sử bất tử.

   Đọc Hồi thứ 14 " Hoàng Lê nhất thống chí", hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta bao ấn tượng không phai mờ.

   Những tác giả- những người con ưu tú của dòng họ Ngô thì ở Tả Thanh Oai đã mượn lời nói của những cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tâu với Thái Hậu, rất khách quan, để giới thiệu Nguyễn Huệ với sự tâm phục và kinh sợ. Vì là người ở phía bên kia, phe đối địch, nên đại từ " hắn" mà người cung nhân này dùng để chỉ Nguyễn Huệ cũng chẳng hề làm mờ đi bức truyền thần vị chiến tướng trăm trận trăm thắng.

   "Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hắn hơn sợ sấm sét."

   Nên biết rằng lúc bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh đã đóng chật Thăng Long, coi nước ta chỉ là quận huyện của chúng, Lê Chiêu Thống đã được Thiên triều cho làm An Nam quốc vương, nhưng với cái nhìn sắc sảo, người cung nhân cũ đã chỉ ra sự bại vong tất yếu của bọn cướp nước và bè lũ bán nước: "E rằng chẳng bấy lâu nữa, hắn lại trở ra,, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi?" Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm 1789 đã cho thấy lời nói ấy là một dự báo linh nghiệm, một chân lí lịch sử rất hùng hồn.

   Nguyễn Huệ là một con người " biết nghe và quyết đoán". Ngày 24 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788) nhận được tin cáo cấp do Nguyễn Văn Tuyết đưa vào, Nguyễn Huệ "giận lắm" định "cầm quân đi ngay" nhưng trước lời bàn "hãy chính vị hiệu", ông đã nghe theo để " giữ lấy lòng người" rồi mới xuất quân đi đánh dẹp cõi Bắc. Việc đắp đàn ở núi Bân, tế Trời Đất, thần Sông, thần Núi, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung đã chứng tỏ cái tầm nhìn chiến lược của người anh hùng áo vải khi Tổ Quốc đứng trước họa xâm lăng.

   Cứu nước như cứu lửa. Ngày 25 còn ở Thuận Hóa thế mà 29 đã hành quân tới Nghệ An : gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp, mộ thêm một vạn tinh binh, tổ chức duyệt binh lớn và truyền hịch đánh giặc cứu nước để kích thích chí khí tướng sĩ và ba quân "đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn", nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ "ăn ở hai lòng ... sẽ bị giết ngay tức khắc", vạch trần thói tàn bạo tham lam của người phương Bắc để kích thích lòng cẳm thù, kêu gọi tướng sĩ noi gương Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ ... để quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.

   Chỉ hơn một ngày đêm, Nguyễn Huệ đã kéo quân ra tới Tam Điệp hội sưu với cánh quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở. Ông ra lệnh cho tướng sĩ ăn tết trước, hẹn đến mùng 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc ăn mừng, rồi chia đại quân thành năm đạo binh lớn " gióng trống lên đường ra Bắc".

   Nguyễn Huệ thật "lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân." Ông đã lấy yếu tố bất ngờ để đánh thắng giặc : bắt sống toàn bộ quân giặc do thám ở sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi, bao vây tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc bị giết " thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối". Tại đàm Mực làng Quỳnh Đô, giặc Thanh bị hợp vây, " quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người." Trong khi đó, một trận "rồng lửa" đã diễn ra ác liệt tại Khương Thượng, xác giặc chất thành 12 gò cao như núi. Nguyễn Huệ đã tiến công như vũ bão, khác nào " tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên" làm cho Tôn Sĩ Nghị "sợ mất mật, ngữ không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp ... nhằm hướng Bắc mà chạy." Trưa mùng 5, Nguyễn Huệ và đại quân đã kéo vào Thăng Long trước kế hoạch hai ngày.

   Nhãn quan quân sự - chính trị của Nguyễn Huệ vô cùng sâu rộng và sáng suốt. Trên đường tiến quân đánh giặc Thanh, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm " người khéo lời lẽ" để "dẹp nỗi việc binh đao", đem lại "phúc cho dân."

   Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu (1789) là một trang sử chống xâm lăng vô cùng chói lọi của dân tộc ta. Nó thể hiện sức mạnh vô địch của lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã dựng nên tượng đài tráng lệ, hùng vĩ người anh hùng áo vải – vua Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:

"   Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước biết bao công trình" 
     ("Ai tư vãn" – Ngọc Hân công chúa)

   Xây dựng và khắc họa hình tương người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc. Nó làm cho trang văn " Hoàng Lê nhất thống chí" thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.

Nguồn: vietjack