Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

các bài phân tích truyện kiều hay

117ccd269aec49d9f5e8f26d6fea14de
Gửi bởi: phamthuminh 8 tháng 5 2016 lúc 0:26:04 | Được cập nhật: 0 giây trước Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 1287 | Lượt Download: 9 | File size: 0 Mb

Nội dung tài liệu

Tải xuống
Link tài liệu:
Tải xuống

Các tài liệu liên quan


Có thể bạn quan tâm


Thông tin tài liệu

TRUYỆỆỆ KIỆỀ U-NGUYỆỄ DU Đề Giới thiệu vài nét về đại thi hào dân tộc nguyễn du Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tô" Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc thời Lê Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng làm Tể tướng; anh là Nguyễn Khản đỗ tiến sĩ, làm đại quan trong phủ chúa, được Trịnh Sâm trọng vọng. Nguyễn Du chỉ đỗ "Tam trường, nhưng văn chương lỗi lạc". Quê hương ông vẫn lưutruyền câu ca: Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước, họ này hết quan. ”Nguyễn Du chỉ làm một chức quan nhỏ dưới thời Lê Trịnh. Dưới thời Tây Sơn, Nguyễn Du lúc thì dạt về Quỳnh Hải, quê vỢ Thái Bình; lúc thì lặn lội về xứ Hồng Lĩnh quê nhà. Ông trải qua "mười năm gió bụi", có lúc ốm đau không có thuốc, mái tóc sớm bạc. Ông tự xưng là "Hồng sơn liệp hộ" (người đi săn núi Hồng), "Nam Hải điếu đồ" (Người câu cá biển Nam Hai): Hồng Sơn cao ngất mấy tầng, Đò Cài mấy trượng là lòng bấy nhiêu!. ”Năm 1802, Gia Long triệu Nguyễn Du ra làm quan. Chỉ trong vòng hơn 10 năm, ông đã bước lên đỉnhcao danh vọng: làm chánh sứ sang Trung Quốc (1813-1814), giữ chức Hữu Tham tri hộ Lỗ. Năm 1820, lần thứ hai, ông lại được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh, qua đời. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du vô cùng rạng rỡ, để lại nhiều thơ chữ Hán và chữ Nôm. về chữ Hán có tập thơ: Nam trung tạp ngâm Bắc hành tạp lục Thanh Hiên thi tập ”,về thơ chữ Nôm có:Truyện Kiều Văn chiêu hồn Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, niềm tự hào của nhân dân ta, đất nước ta: Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,“ Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày. ”(Kính gửi Cụ Nguyễn Du Tố Hữu)Đè Tinh thần nhân đạo cao carlaf giá trị lớn nhất, sâu sắc nhất của “Truyện kiều’-kiệt tác của nền thi ca cổ điển Việt Nam. Em hãy chứng minh để làm rõ tưởng trên.Trong “đề từ" tập thơ Đoạn trường tân thanh, tiến sĩ Phạm Quý Thích đãviết:...Mặt ngọc lỡ sao vùi đáy nước,Lòng trinh không thẹn với Kim lang.Đoạn trường mộng tỉnh duyên đà đứt,Bạc mệnh đàn ngưng hận vẫn vương...(Nguyễn Quảng Tuân dịch) Phạm Quý Thích là người cùng thời với Nguyễn Du. Lời đề từ của nhà nho danh tiếng này đã khẳng định và ngợi ca giá trị nhân đạo của kiệt tác Truyện Kiều. Mười lăm năm trời lưu lạc của nàng Kiều là một thiên bạc mệnh thấm đầy lệ làm xúc động lòng người “Cảo thơm lần thở trước đèn..." 3254 câu thơ Kiều dào dạt một tình thương mênh mông của Nguyễn Du trước những bi kịch cuộc đời "những điều trông thấy mà đau đớn lòng...Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ Truyện Kiều. Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người như tài sắc. lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu... Đó còn là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứađôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót thương với bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ “bạc mệnh" trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng và thương yêu con người bị áp bức, bị chà đạp.Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều, trước hết là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là hiện thân của cái .p và tài năng tuyệt vời. Nàng kiều diễm, rực rỡ “Hoa ghenthua thắm, liễu hờn kém xanh". Kiều không chỉ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành" mà còn có một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:Thông minh vốn sẵn tính trời,Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.Kim Trọng, một văn nhân, tài tử "vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa", là một “thiên tài" hội tụ của tinh hoa thời đại “văn chương nết đất, thông minh tính trời". Mỗi bước đi của chàng Kim đều đem đếncho đất trời cỏ cây hoa lá một sức sống đẹp tươi kỳ diệu: Hài văn lần bước dặm xanh,Một vùng như thể cây quỳnh cành daoMối tình của “Kim Trọng Thuý Kiều" là một thiên diễm tình. Đó là một tình yêu tự nguyện vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến, rất trong sáng và thủy chung của “người quốc sắc, kẻ thiên tài".Kiều là một đứa con chí hiếu. Gia đình gặp tai biến. Tài sản bị bọn sai nha “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham", cha bị tù tội. Kiều đã quyết hy sinh mối tình riêng, để cứu cha và gia đình. Hành động bán mình chuộc cha của Thúy Kiều thấm đượm một tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm phục và xúc động:Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,Liều đém tấc cồ quyết đền ba xuân. Thà rằng liều một thân con Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.Đọc Truyện Kiều lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta vô cùng cảm phục trước tấm lòng đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Kiều như quên hết nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thươngnhớ thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cha mẹ già yếu, buồn đau, không ai chăm sóc đỡ đần:Xót người tựa cửa hôm mai,Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ...Tình tiết trao duyên" trong Truyện Kiều cũng là một nét rất đẹp của tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời "Hiếu tình khôn nhẽ hai đường vẹn hai”, Kiều đã “cậy cm" và trao duyên cho Thuý Vân thay mình trả nghĩa “nước non" với chàng Kim:...Ngày xuân em hãy còn dài,Xót tình máu mủ, thay lời nước non.Chị dù thịt nát xương mòn,Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây Chiếc thoa với bức tờ mây,Duyên này thì giữ, vật này của chung...Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công lý, những khái vụng về tự do.Từ Hải là một hình tượng mang màu sắc sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoại hình siêu phàm “Râu hùm hàm én mày ngài Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao". Với những chiến công hiển hách, lẫy lừng “Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam", Từ Hải là một anh hùng đầy chí khí "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!". Người anh hùng ấy, khi lưỡi gươm vung lên là công lý được thực hiện:Anh hùng tiếng đã gọi rằng,Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!Từ Hải đã đem uy lực của người anh hùng ra giúp Kiều "báo ân báo oán". Hình tượng Từ Hải là một thành công kiệt xuất của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. Vẻđẹp nhân văn toát lên qua hình tượng này, tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tăm tối của đời nàng Kiều vậy. Tuy ngắn ngủi nhưng sáng ngời hy vọng và niềm tin. SỐ phận con người đó là điều day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dànhcho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót thương sâu sắc.Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã: “Thanh lâu hai lượt, thanh hai lần". Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Kiều phải hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan. ...uất ức quá, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ: "thương thay", “hại thay”, “làm chi", "còn gì là thân" tựa như những giọt lệ chứa chan tính nhân đạo, khóc thương cho số đoạn trường:... Thương thay cũng một kiếp người,Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.Những là oan khổ lưu ly Chờ cho hết kiếp còn gì là thân! ...Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một ám ảnh đối với mọi người. Người kỹ nữ "nổi danh tài sắc một thì" nhưng mệnh bạc đau đớn “Sống làm vợ khắp người ta Hại thay thác xuống làm ma không chồng". Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời đồng cảm tha thiết! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội cũ?Đau đớn thay phận dìm bù,Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc thông qua số phận và tính cách nhân vật trung lâm Thuý Kiều đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác Đoạn trường tân thanh cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cảm động.Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này. Chúng ta vô cùng lự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam.Nguyễn Du và Truyện Kiều sống mãi trong tâm hồn dân lộc, như tiếng hát lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời:Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du, Tiếng thươ Đề Vẻ đẹp ngôn từ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Xưa nay, nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều người ta thường hay chú trước hết đế những chỗ dùng từ chính xác, từ hay tinh tế thường được gọi là lối dùng từ đắt của Nguyễn Du ,cũng như cách dùng hư từ khối lượng từ đồng nghĩa từ có phong cách khẩu ngữ, từ mang phong vị ca dao thành ngữ, tục ngữ,,, Ví như hai từ đầy đặn nở nang trong câu thơ Khuôn trăng đầy đặn Nét ngài nở nang khi tác giả dùng để miêu tả Thuý Vân. Hai từ đó không chỉ đơn thuần là miêu tả khuôn mặt tròn trịa ,đầy đặn như mặt trăng đêm rằm của nàng Vân cũng như cả cái nét ngài minh bạch ,rõ ràng uốn cong thanhtú của nàng mà đó còn là sự đầy đặn, mỹ mãn của số phận của cuộc đời nàng Hai chữ thua nhường trong câu thơ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da dùng để chỉ thiên nhiên và cũngchính là tạo hoá sẽ chịu thua mái tóc mây, dài, xanh mượt, màu da trắng như tuyết để nhường bước cho nàng đi trên con đường bằng phẳng không hề có chông gai Hay như chữ thông minh trong câu Thông minh vốn sẵn tính trời dùng để nhấn mạnh trí tuệ thiênbẩm của nàng Kiều mà nhiều người cho rằng đó là một nhãn tự nhờ cách nhà thơ đưa từ này lên đầucâu nó không chỉ nhằm khắc hoạ một tính cách mà là cả một nhân cách Kiều đẹp sắc sảo, mặn mà– Một vẻ đẹp vừa rực rỡ vừa hấp dẫn rất có hồn điều đó đã quá rõ rồi. Nhưng Kiều chiếm được cảm tình nơi bạn đọc không phải vì cái vẻ sắc nước hương trời ,cùng tài năng hiếm có cuả nàng màchủ yếu là phẩm cách tuyệt vời và một trí tuệ hơn người Trong tác phẩm Truyện Kiều Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo kiểu ấy Chẳng hạn như câu Anh minh phát tiết ra ngoài Điều đó cho thấy ánh sáng trí tuệ chính là yếu tố nổi bật trong tài hoa của Thuý Kiều Còn như từ não trong câu Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân đây Nguyễn Du đã sử dụng từ não rất chính xác .Nội hàm nghĩa của từ này diễn đạt nỗi buồn đã có sẵn tự trong lòng Nó không chỉ đơn thuần là sầu buồn là những từ diễn đạt nỗi buồn trên sắc diện con người mà là não (não lòng não nuột) Âm thanh của từ ngữ này dường như xoáy sâu vào tâm can người đọc Bởi lẽ, khúc nhạc tiêu tao của thiên bạc mệnh ấy đã từng khiến cho biết bao người rung cảm, sầu não theo từng khúc nhạc não nề Nó đã từng khiến cho Kim Trọng nao nao lòng người Thúc Sinh phải tan nát lòng và cho cả trái tim vô tình, sắt đá của quan Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến cũng phải cảm thương mà rơi châu nhỏ lệ Cung đàn bạc mệnh của Kiều đã trở thành một hình tượng nghệ thuật thể hiện tâm hồn đa sầu, đa cảm và số phận bi thương của Kiều là vì thế Cả câu Não người cữ gió tuần mưa, thì từ não cũng được dùng với nghĩa như vậy Nhiều người cho rằng Nguyễn Du sử dụng từ ngữ rất đắt Đắt vì nhiều khi chỉ một chữ thôi đã có thể lột tả được bản chất bên trong của con người Đó là trường hợp câu thơ Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao mà nhà thơ dùng để khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh lúc đến hỏi Kiều về làm vợ .Một kẻ đã ngoài tứ tuần mà Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao thì thật nực cười và kỳ cục đến không thể chấp nhận được. Bởi nhẵn nhụi là từ ngữ người ta thường dùng để chỉ độ trơn bóng láng của đồ vật chứ không phải dùng để chỉ tính chất trang nhã lịch sự của con người Còn từ bảnh bao thường dùng để khen trẻ em có quần áo đẹp lại dùng cho Mã Giám Sinh thì lại có chế giễu mỉa mai Một kẻ đã nhiều tuổi nhưng lại cố tô vẻ tỉa tót thì lại trở nên kệch cỡm giả tạo và có phần trai lơ đàng điếm Đặc sắc nhất vẫn là cách dùng từ trong câu Ghế trên ngồi tót sỗ sàng một cử chỉ vội vàng khiếm nhã khiến Nguyễn Du phải hạ ngay một từ sỗ sàng Cử chỉ ấy không phù hợp với một người đi hỏi vợ và lại càng không đúng với phẩm cách văn hoá của một giám sinh Nó qúa bất ngờ so với sự chờ đợi của người đọc, quá phi lý so với vai trò của một sinh viên trường Quốc Tử Giám Cử chỉ này là tín hiệu đầu tiên để bước đầu khẳng định bản chất của Mã Giám Sinh Tự định vị một cách vô lễ trịch thượng, chướng mắt trên chiếc ghế của người bề trên những bậc cao niên càng cho thấy tính chất vô học và nhất là tâm lý hợm cúa của kẻ buôn người giàu có Chỉ một chữ tót đã phủ nhận vai trò giám sinh của gã họ Mã Như thế cũng chưa đủ Cái cách cò kè thêm bớt đến cả một giờ lâu rồi mới ngã giá vàng ngoàibốn trăm thì Nguyễn Du đã lột tả được bộ mặt gớm ghiếc, giả dối của Mã Giám Sinh Hắn đã hiện nguyên hình là một gã con buôn lọc lõi chỉ cần biết một điều là làm sao mua được món hàng với giá hời nhất chỉ cần một vốn mà có đến bốn lời là được .Chỉ với một từ cò kè rất con buôn Nguyễn đã cho ta thấy được bộ mặt tàn ác, dơ bẩn nhất của bọn buôn thịt bán người mà Mã Giám Sinh là đại diện .Và trong đoạn đời đầu tiên của bước lưu lạc, lúc Kiều được đưa ra lầu Ngưng Bích Nàng đãsống trong một tâm trạng buồn tủi chua xót đến cực độ Nàng đâu còn cơ hội khoá kín tuổi xuân của mình nữa Nàng không còn giữ được chữ trinh đối với chàng Kim thì hai chữ khoá xuân lại đầy mỉa mai đối với nàng Thực chất nàng đang bị Tú Bà giam lỏng để chờ ngày kén chồng tử tế nhưngthực ra là mụ đang rắp tâm thực hiện một âm mưu mới Trong cảnh vò võ cô đơn trơ trọi nàng đã tưởng nhớ đến người yêu Chỉ một từ tưởng mà nóiđược bao điều Nếu mơ là luôn nghĩ đến những kỉ niệm những điều tốt đẹp về nhau hay nhớ cũnglà nghĩ đến những điều tốt đẹp nhưng lại có thêm mong mỏi có ngày gặp lại thì tưởng cũng là mơ lànhớ nhưng với Kiều chỉ là tưởng chỉ xem mối tình đầu trong trắng, ngây thơ của mình là một kỉ niệmđẹp không dám mơ tưởng những gì xa xôi lại càng không dám mong gì ngày gặp lại Nhớ người yêu Kiều cũng rất nhớ về cha mẹ Nhưng Nguyễn Du không dùng thương hay nhớ mà lại dùng một chữ xót đầu câu thơ Bởi xót đâu chỉ đơn thuần là nhớ là thương mà còn bao hàm cả nỗi giận đờivà trách mình Ngay cả việc sử dụng điệp ngữ buồn trông cuối đoạn thơ Kiều lầu Ngưng Bích ta càng thấyNguyễn Du không hề vô tình khi đặt chữ buồn đứng trước chữ trông .Buồn mà trông ,buồn rồi mới trông là nỗi buồn thấm sâu tự đáy lòng Kiều để rồi trông vào mọi vật nàng chỉ thấy thấp thoáng mơ hồ, tàn tạ, héo uá như chính cuộc đời của nàng cùng với nỗi lo sợ hãi hùng về một tương lai mờ mịt Thật đúng là Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ Đọc Truyện Kiều ta còn bắt gặp được nhiều câu thơ nhiều từ ngữ đặc sắc như thế Chữ cậy em và chữ chịu lời trong câu 723 dùng thật khéo Cụ Nguyễn Du dùng chữ cậy là tuyệt hay vì nếu thay chữ nhờ và chữ nghe lời vào thì câu thơ sẽ là Nhờ em em có nghe lời thành ra quá áp đặt câu thơ trở nên tầm thường, nhạt nhẻo không còn vị gì nữa Vì điều Kiều sắp nói cho em biết thuộc vềchữ tình nên chưa chắc em đã nhận lời cho Do vậy dùng cậy và chịu lời là hợp lý nhất Chữ tốc dùng trong câu 1.133 Tú Bà tốc thẳng tới nơi lúc sở khanh đưa Kiều chạy trốn là tuyệt khéo Chỉ mới nghe câu thơ ấy thôi cũng đủ biết rằng mụ Tú Bà giận dữ lắm dáng bộ hung hăng, vội vàng lắm mặc dù điều đó nằm trong âm mưu của mụ nó hoàn toàn khác cái vẻ thong dong khi mụ dạy Kiều nghề chơi. Một chữ tốc thôi nhưng có sức mạnh lạ thường .Như chỗ nàng Kiều vượt tường để trốn khỏi Quan Âm Các của nhà họ hoạn Cất mình qua ngọn tường hoa câu 2.227 Chữ cất dùng đấy thật tuyệt Vì nó mơ hồ ,ta không thể biết được là nàng Kiều văng mình qua tường hay trèo qua tường để trốn đi .Hay như chữ chặn trong cặp câu thơ 3.181 3.182 trong màn Đoàn viên Thân tàn chặn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta Nguyễn Du dùng chặn mà không dùng gạn Bởi vì từ chặn được dùng với nghĩa chặn dòng đục trong quá khứ của cuộc đời Kiều Quả thật với hoàn cảnh Kiều lúc bấy giờ thì không thể gạn đục khơi trong được Chữ chặn vì thế mà có giá trị biểu cảm cao .Nhìn chung, từ ngữ Truyện Kiều không chỉ hay mà còn rất đắt rất độc đáo. Nhiều chữ được dùng đi,dùng lại rất nhiều lần nhưng với một nét nghĩa mới nên không thấy nhàm chán như 63 trường hợp sửdụng từ thân, 59 từ xuân, 14 từ ngựa rất nhiều lần sử dụng chữ tâm và chữ tài Ngay như chữ chút là một uyển ngữ rất khó dùng thế mà Nguyễn Du sử dụng được 47 chữ như thế …1. Vấn đề sử dụng từ ngữ ước lệ trong Truyện Kiều :Là nhà thơ thiên tài của dân tộc Nguyễn Du là người chiụ ảnh hưởng rất lớn thi pháp cổ điển về khắc hoạ xây dựng hình tượng nhân vật Vì thế ngôn từ ước lệ được sử dụng nhiều trong Truyện Kiều Cũng giống như người xưa nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết mai trăng hoa, mây tuyết thu thuỷ xuân sơn hoa liễu …Làm chuẩn mực làm thước đo giá trị vẻ đẹpcủa con người Tác giả đã dùng bút pháp cực tả tuyệt đối hoá lý tưởng hoá nhan sắc cốt cách hai chị em Kiều Đó là Mai cốt cách tuyết iình thần khuôn trăng nét ngài hoa cười ngọc thốt mây thua, tuyết nhường làn thu thuỷ, nét xuân sơn hoa ghen, liễu hờn …Để khắc hoạ cái cốt cách thanh tao mảnh dẻ như mai tinh thần trong trắng như tuyết. Một vẻ đẹp mười phân vẹn mười nhưng mỗi người một vẻ của chị em Kiều .Tả nàng Vân kiều diễm Nguyễn Du dùng khuôn trăng, nét ngài hoa cười, ngọc thốt mây thua tuyết nhường cùng vơí một số từ nôm na như khác vời và những từ ngữ đầy đặn, nở nang vừa khắc hoạ được vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của nàng Vân vừa như dự báo được cuộc sống sau này rất bình lặng của nàng .Còn với Kiều Nguyễn Du đã dùng vẻ đẹp của Thuý Vân để bẫy vẻ đẹp của Kiều Nhà thơ đã dùng đến 12 câu thơ để khắc hoạ về Kiều Điều đó chứng tỏ nhà thơ đã dành cho nhân vật chính của mình một tình cảm hết sức đặc biệt Nhiều thi liệu cổ đã được huy động để khắc hoạ bức chân dung tuyệt mỹ của giai nhân như Làn thu thuỷ nét xuân sơn hoa ghen liễu hờn Với bút pháp lý tưởng hoá Kiều hiện ra trước mắt người đọc bằng hình ảnh một thiếu nữ có đôi mắt trong sáng bình lặng như mặt nước hồ thu nét mày uốn cong thanh tú như dáng núi mùa xuân .Thật là một dung nhan rực rỡ sắc sảo mặn mà vừa có duyên, vừa có hồn Nhưng đẹp đến độ sắc nước hương trời chim sa cá lặn nước thành nghiêng đổ hoa phải ghen liễu phải hờn tất cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, đau khổ Mười lăm năm lưu lạc chìm nổi của Kiều đã chứng minh rõ điều đó .Là một nghệ sĩ về ngôn từ Nguyễn Du không sử dụng những thi liệu cổ ấy một cách máy móc rập khuôn mà sự sáng tạo của nhà thơ là rất lớn Nói tới nỗi buồn của người đẹp nhà thơ gắn với những thềm hoa ,lệ hoa rồi nét buồn như cúc điệu gầy như mai Nói chung qua việc sử dụng những thi liệu cổ nhà thơ đã tạo ra những từ ngữ rất riêng rất Nguyễn Du nhưng vẫn là ngôn ngữ dân tộc .2. Ngôn từ thiên nhiên (vũ trụ thi ca) của Truyện Kiều .Theo tác giả Đặng Tiến thì vũ trụ thi ca trong Truyện Kiều là một không gian với chân trời rộng Ngoàithảm cỏ non phải xanh tận chân trời Cảnh ngày xuân) thì không gian còn là một vũ trụ rộng, trống,mờ xa tít tắp với vẻ non xa tấm trăng gần với cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia (Kiều lầu Ngưng Bích). Đó là một vũ trụ từ chối cuộc sống, từ chối con người -một vũ trụ mà cảnh vật bốn bề bát ngát xa trông, bên thì cồn cát nhấp nhô như sóng lượn bên thì bụi hồng trải dài khắp dặm xa mênh mông .Ngoài ra, trong Truyện Kiều Nguyễn Du còn sử dụng rất nhiều ngôn từ vũ trụ thi ca Con đường khuya thì phải ngắt tạnh mù khơi màu của rừng thu phải là màu quan san khung trời thương nhớ phải gợn áng mây Tần xa xa đến túp lều cỏ bên sôngTiền Đường cũng phải là Một gian nước biếc mây vàng chia đôi Bên cạnh đó còn có những dặm vi lô hiu hắt những bờ liễu loi thoi những rừng phong quan tái Rồi đến cảnh màu xanh tơ liễu bên cầu gió cây trút lá mấy ngàn dâu xanh xuất hiện trong Truyện Kiều những giờ phút chia phôi những lúc bước chân ngập ngừng những lúc tâm hồn phân tán Dường như nhà thơ muốn thu nhận cả đất trời nhân loại bằng cái nhìn phơi trải trong hình ảnh non phơi bóng vàng cái nhìn đo lường kích thước cuộc sống hằng ngày để xác định vị trí ,tầm sống của mình trước cuộc đời .4 Về ngôn từ chỉ màu sắc trong Truyện Kiều :Truyện Kiều có nhiều từ ngữ chỉ màu sắc (có đến 119 lần) với nhiều màu khác nhau. Nguyễn Du dùng từ chỉ màu sắc để tạo thành các hình tượng có nội dung khái quát, rộng lớn và giàu giá trị thẩm mỹ .Trước hết cần xét từ ngữ chỉ màu sắc trong các đoạn trích học sách Ngữ Văn tập 1) :Tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt còn xanh hơn cả mây làn da trắng mịn hơn cả tuyết Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da đây Nguyễn Du dùng màu mây thay cho màu đen của mái tóc Bởi trong Truyện Kiều chưa có màu đen có nghĩa đẹp cho nên tóc đen đẹp được gọi là tóc mây .Tả nàng Kiều với đôi môi đỏ thắm khiến hoa phải ghen vì thua thắm và mái tóc xanh mượt khiến liễu phải hờn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh .Rồi đến màu cỏ non xanh tận chân trời một màu xanh trải dài mênh mông tít tắp mà nổi bật trên cáinền toàn cảnh màu xanh ấy là sự điểm xuyết của một vài bông hoa lê màu trắng Những màu sắc cósự hài hoà tới mức tuyệt dịêu làm cho bức tranh thiên nhiên càng thêm tươi đẹp những màu sắc tươi sáng, đầy sức sống .Không chỉ có màu trắng màu xanh Nguyễn Du còn đề cập đến màu vàng màu hồng trong câu Cátvàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Đó không chỉ đơn thuần là sắc vàng của cồn cát nhấp nhô, sắc hồngcủa từng đám bụi cuốn lên từng dặm xa mênh mông mà còn là cát bụi của cuộc đời .Đó là màu vàng tàn tạ héo uá của nội cỏ dàu dàu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh là nhữngmàu buồn ,ảm đạm, thiếu sức sống màu của bế tắt, không lối thoát .Trong Truyện Kiều ,từ ngữ chỉ màu sắc ít có tính chất tả thực mà nặng về tính biểu trưng Tác giả thường lấy màu của sự vật để tả cảnh, gợi tình. đây có mặt sắt đen sì của Hồ Tôn Hiến có lờn lợtmàu da của mụ Tú Bà, mặt như chàm đổ của Thúc Sinh v.v… Màu cỏ cũng đa dạng khi thì Cỏ non xanh tận chân trời khi thì Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh khi thì cỏ lợt màu sương khi thì cỏ áy bóng tà, khi thì Một vùng cỏ mọc xanh rì …Với Ngyuễn Du màu sắc là sản phẩm của cảnh vật và tâm lý Màu cỏ non xanh gắn với bao cảm xúcbao la về viễn cảnh của cuộc đời với vẻ thanh tân, trinh trắng của một vài bông hoa lê đầu mùa Ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh như cuộc đời dang dở Cỏ áy bóng tà cỏ nhuốm ánh vàng của nắng chiều như có cái gì xốn xang, day dứt .Màu sắc trong Truyện Kiều còn là màu sắc của tình cảm Đó là những màu quan san, màu quan tái màu khơi trêu màu của nỗi nhớ Bốn phương mây trắng một màu Trông vời cố quốc biết đâu là nhà. Hay trời cao trông rộng một màu bao la Có thể nói, Nguyễn Du không chỉ nắm bắt sắc màu của sự vật mà còn nắm bắt và diễn tả cả sắc màu tình cảm nhuốm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho phong cảnh trở nên sinh động, có hồn …5.Về cách sử dụng hư từ :Theo kiến của nhiều người thì vấn đề dùng hư từ chỉ có Truyện Kiều của Nguyễn Du là dùng đúng nhất .Cụ thể là các chữ bao, bấy được dùng một cách độc chiếc trong Truyện Kiều Trải bao thỏ lặn ác tà Quản bao tháng đợi năm chờ Trời Liêu non nước bao xa Biết bao duyên nợ thề bồi Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao Năm chữ bao ấy đều dùng chữ bằng nào mà cắt nghĩa được cả trải bằng nào ngày đêm đợi chờ đến bằng nào năm tháng xa bằng nào thề bồi bằng nào đội trên đầu bằng nào Tất cả đều có hỏi để tỏ ra nghiã là nhiều không phải ít Cũng vậy, chữ bấy được dùng độc chiếc như Khéo vô duyên bấy là mình với ta Phủ phàng chi bấy hoá công Trời làm chi cực bấy trời Thân sao bướm chán ong chường bấy thân Hoa sao hoa khéo đoạ đày bấy hoa Năm chữ bấy ấy đều dùng bằng ấy mà cắt nghĩa được cả vô duyên bằng ấy phũ phàng bằng ấy cực bằng ấy chán chường bằng ấy đoạ đày bằng ấy Đều có tỏ lòng thương tiếc hoặc trách móc.Rồi đến chữ bây nhưng chữ này không thể dùng độc chiếc Lão kia có giở bài bây) .Nhà thơ Nguyễn Du đã đặt sau các chữ bao bây bấy một chữ để làm thành liên tự chỉ thời gian như bao giờ bây giờ bấy giờ Những hư từ này được sử dụng nhiều trong Truyện KiềuCác liên từ bao nhiêu bấy nhiêu cũng được sử dụng một cách linh hoạt trong tác phẩm cụ thể là 3trường hợp sau :1. Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường Bao nhiêu của mấy ngày đường Bao nhiêu dùng độc chiếc không đi đôi với bấy nhiêu.2. Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình thì bấy nhiêu dùng độc nhất không đi với bao nhiêu .3. Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi; Bao nhiêu đi đôi với bấy nhiêu …6 Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật .a Trước hết,cần nói đến từ ngữ mang phong vị ca dao thành ngữ tục ngữ .Ở đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Truyện Kiều xuất hiện một tứ thơ mang phong cách thành ngữ tục ngữ Để diễn tả nỗi lòng tưởng nhớ người yêu xót thương cha mẹ Nguyễn Du đã biểu đạt tâm tư ấy qua chiều dài của thời gian và khoảng cách của không gian như dưới nguỵêt chén đồng rày trông mai chờ tựa cửa hôm mai cách mấy nắng mưa chân trời góc bể tấm son gột rửa, hoa trôi man mác nội cỏ dàu dàu, chân mây mặt đất gió cuốn mặt duềnh ,ầm ầm tiếng sóng… Những từ ngữ này làm cho cách sử dụng ngôn từ trở nên gần gũi dễ hiểu mang đậm màu sắc dân tộc .b Cách tạo từ mới đặc sắc trong Truyện Kiều .Nguyễn Du đã tạo ra hàng loạt ngôn từ không có trong thực tế cũng không có trong từ điển thông thường mà theo ông Trần Đình Sử đó là những ngôn từ tượng (là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng không phải là hình ảnh sao chép thực tại có cấu tạo riêng nói lên sự cảm thụ chủ quan củatác giả :Nói tới nước mắt thì nói giọt ngọc giọt châu giọt tương giọt hồng giọt tủi, giọt riêng …Nói đến giấc ngủ thì ông nói giấc xuân giấc mai, giấc hoè giấc tiên, giấc nồng …Nói tới mái tóc không chỉ là tóc mây tóc sương mà là mái sầu .Nói tới đường xa ông nói thành dặm hồng dặm xanh dặm băng ,dặm khách dặm phần …Nói tới chén rượu ông lại nói tới chén xuân chén quỳnh chén đưa, chén mời chén khuyên chén đồng mang đầy sắc thái khác nhau của tình huống .Nói tới cửa sổ ông cũng nói bằng những từ của riêng ông song sa song mai song hồ song mây song trăng song đào song phi …Nói tới bóng trăng thì là bóng nga, bóng nguyệt …Nói tói tấm lòng thì ông gọi là tấm riêng tấm yêu tấm son ,tấm thành hoặc tấc cỏ ,tấc riêng tấc son, tấc lòng …Cùng là gió mà có bao nhiêu thứ gió như gió mưa gió trăng gió trúc mưa mai, gió tựa hoa kề giótủi mưa sầu …Những ngôn từ tượng này cũng là phương diện cơ bản của ngôn từ nghệ thuật Truyện Kiều Nguyễn Du đã phá vỡ cách tạo từ thông thường để tạo từ mới gây hiệu quả lạ hoá .Nhà thơ cũng đã phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo thành những kết hợp không đâu có Chẳng hạn ăn gió nằm mưa bướm chán ong chường bướm lả ong lơi, cười phấn cợt son ,dày gió dạn sương, gìn vàng giữ ngọc, gió gác trăng sân, gió thảm mưa sầu gió trúc mưa mai gió giục mây vần, hoa thải hương thừa hồn rụng phách rời lấy gió cành chim tô lục chuốt hồng tiếc lục tham hồng, liễu ép hoa nài liễu chán hoa chê ngày gió đêm trăng nắng giữ mưa gìn …Các cấu tạo đặc biệt này diễn đạt một trạng thái sự vật có nghĩa phổ quát diễn ra nhiều lần và chỉ hiểu được trong ngữ cảnh tác phẩm Truyện Kiều mà thôi .Nói tóm lại, trong văn học Tiếng Việt chỉ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngôn từ mới tự đứng lên biểu diễn như một nghệ thuật Nói Nguyễn Du là nhà nghệ sĩ lớn về ngôn từ chính là nói đến cách ứng xử nghệ thuật của ông đối với ngôn ngữ dân tộc và hiệu quả của nó Điều này có nghĩa đặc biệt đối với việc sáng tạo ngôn ngữ thi ca nói chung mà Nguyễn Du là một tấm gương tiêu bi ểu.Đề 4: bình luận hai câu thơ trong truyện kiều: “đau dớn thay phận đàn bàLời rằng bạc mệnh cũng là lời chung .”Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du là kiệt tác của nền văn học cổ điển Việt Nam. Truyện Kiều là tình yêu thương, niềm say mê lớn trong hàng trăm năm của hàng triệu con người. Vút qua năm tháng "đêm trường dạ tối tăm mù mịt", nhiều câu thơ Kiều đọng trong tâm hồn nhân gian bao ámảnh:Đau đớn thay phận đàn bà,Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.1. "Phận" là thân phận, số phận. Theo quan niệm cũ, số phận của con người được sung sướng hayđau khổ là do một thế lực huyền bí, thiêng liêng định đoạt. Câu thứ nhất là lời cảm thán cho số phận đàn bà đau khổ."Bạc mệnh" hay mệnh bạc là số phận, số mệnh tiền định mong manh, đen tối, trải qua nhiều đau thương bất hạnh "bạc mệnh" không chỉ riêng ai mà là "lời chung", là số phận đáng thương của hầu hết mọi người phụ nữ trong xã hội cũ. Hai câu thơ trên là tiếng khóc của Thúy Kiều khi đứng trước nấm mồ Đạm Tiên một buổi chiều Thanh minh. Đó là tiếng khóc của nàng cho mọi người phụ nữ tài hoa bạc mệnh ngày xưa, và cũng tự khóc cho đời mình mai sau (dự cảm). thơ mang tính chất khái quát rất cao, biểu hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du qua Truyện Kiều.2. Hai câu thơ trên đã nói lên bi kịch về thân phận của người phụ nữ ngày xưa: đau khổ, bạc mệnh. Nguyễn Du đã sống trong một thời đại đen tối là lúc chế độ phong kiến suy tàn, đầy rẫy thối nát, bất công và dã man. Truyện Kiều đã phản ánh một cách sống động và chân thực cái hiện thực đen tối ấy của xã hội phong kiến:Trải qua một cuộc bể dâu,Những điều trông thấy mà đau đớn lòng."Phận đàn bà" trong xã hội ấy là "đau đớn", là "bạc mệnh", tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiếnkhe khắt, cổ hủ nặng nề: trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô), đạo "tam tòng" như sợi dây oan nghiệt thít chặt vào cổ người đàn bà (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòngtử). Thân phận bếp núc, không được học hành, không có chút quyền hành gì ngoài xã hội. Nam nữ"thụ thụ bất thân". Người con gái và nhan sắc chỉ để "mua vui" cho bọn vua chúa, quan lại, kẻ quyền quý... Hai chữ "bạc mệnh" trong lời thơ đã cực tả nỗi "đau đớn", tủi nhục của khách "má hồng".Nguyễn Du đã phản ánh một sự thật đau lòng trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát. Nạn mất mùa,dịch bệnh, tệ áp bức bóc lột nặng nề của vua quan, chiến tranh, loạn lạc triền miên đã dìm người dânlành trong máu, nước mắt và đói rét. Phụ nữ và trẻ em là lớp người đau thương nhất: góa bụa, côi cút... Có người phải ăn xin "chết lăn rãnh đến nơi, thịt da béo cầy sói" (Những điều trông thấy). Có giai nhân "nổi danh tài sắc một thì" nhưng bạc mệnh:"Sống làm vợ khắp người ta,Hại thay thác xuống làm ma không chồng" (Đạm Tiên).Có thiếu nữ hiếu thảo, tài sắc vẹn toàn nhưng phải trải qua số kiếp "đoạn trường" nên phải nếm đủ mùi cay đắng nhục nhã "Thanh lâu hai lượt, thanh hai lần" (Thúy Kiều)...Nguyễn Du bằng sự trải nghiệm của đời mình, đã từng mười năm trời lưu lạc, không thuốc men lúc ốm đau, vợ con chia lìa, anh em tan tác (Anh em tan tác nhà không có Ngày tháng xoay vần tóc bạcrồi Thơ chữ Hán), nên ông đã có sự đồng cảm sâu sắc, cảm thương vô hạn cho bao nỗi đau đớn của người phụ nữ bạc mệnh. Ông đã lên tiếng tố cáo những thế lực hắc ám, bạo tàn (quan lại, bọn lưu mạnh, lũ buôn thịt bán người, đồng tiền hôi tanh và bạo lực...) đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người, của người phụ nữ. Truyện Kiều là tiếng kêu thương thống thiết, ai oán, não nùng. Tiếng kêu thương ấy, nhà thơ đã gửi vào thân phận một người đàn bà "Những là oan khổ lưu li Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!".Hai câu thơ:Đau đớn thay phận đàn bà,Lời rằng bục mệnh cũng là lời chung. đúng như Tố Hữu đã nói "còn đọng nỗi đau nhân tình"; "Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều!...". Nó chứa chan tinh thần nhân đạo cao đẹp.3. Câu thơ của Nguyễn Du cho đến nay vẫn còn làm xúc động lòng người. Cách mạng đã xác nhận quyền nam nữ bình đẳng. Người phụ nữ đã có vai trò rộng lớn trong xã hội. Đảm đang việc nước, đảm đang việc nhà, người phụ nữ đã và đang phát huy tài năng, đức hạnh trong sản xuất, học tập và chiến đấu:Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử,Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ.(Huy Cận)Hai cân thơ của Nguyễn Du tuy không còn nghĩa phổ biến nữa, nhưng trong xã hội hiện nay vẫn còn không ít bất công, tàn dư của tư tưỏng phong kiến, đã và đang làm cho người phụ nữ bị thiệt thòi, đau khổ. Vì thế cuộc đấu tranh để thực sự giải phóng phụ nữ phải được tiếp tục.Qua hai câu thơ:Đau đớn thay phận đàn bà,Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.Ta thấy trái tim yêu thương mênh mông của thiên tài Nguyễn Du, ta cảm nhận sâu sắc giá trị nhân bản tuyệt vời của Truyện Kiều. Một lần nữa trong Văn Chiêu hồn, Nguyễn Du lại thống thiết kêu lên:Trên đây chỉ là phần trích dẫn 10 trang đầu của tài liệu và có thế hiển thị lỗi font, bạn muốn xem đầyđủ tài liệu gốc thì ấn vào nút Tải về phía dưới.