Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Kiểm tra về truyện trang 155 sgk

Lý thuyết
Mục lục
* * * * *

Đề bài:

Chọn và phân tích một đoạn miêu tả đặc sắc cảnh thiên nhiên trong các truyện đã học. Ví dụ: cảnh bãi sông Hồng trong truyện Bến quê

(Lựa chọn đoạn trích văn sau:

“Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hòa bằng lăng đã thưa thớt - cái giống hoa ngay khi mới nở màu sắc đã nhợt nhạt. Hẳn có lẽ vì đã sắp hết mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn. Ừ, cũng chả phải, Nhĩ vừa ngồi để cho vợ bón từng thìa thức ăn vừa nghĩ, chính vì thời tiết này đã thay đổi, đã sắp lập thu rồi, cái nóng hầm hập ở trong phòng cùng với thứ ánh sáng loa lóa vừa nhìn đã thấy chói cả mắt ở ngoài bờ sông Hồng không biết dã rút đi đâu từ bao giờ.

 

Bên kia những hàng cây bằng lăng, tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ. Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến - cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình.”

Hướng dẫn giải

Truyện ngắn Bến quê là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, được viết vào năm 1985. Tác phẩm sử dụng rất nhiều những hình ảnh mang tính ẩn dụ, đa nghĩa, và một trong số ấy là cảnh thiên nhiên với những bông hoa bằng lăng tím - cảnh miêu tả thiên nhiên ở đầu tác phẩm.

Đoạn văn được mở đầu tác Bến quê là đoạn miêu tả những bông hoa bằng lăng. Những bông hoa ấy được tác giả miêu tả với sắc tím - nhưng không phải là màu tím mộng mơ của xứ Huế, mà lại là màu tím nhợt nhạt, với những bông hoa cuối mùa màu "như trở nên đậm sắc hơn”. Thêm nữa là “thứ ánh sáng loa lóa vừa nhìn đã thấy chói cả mắt ở ngoài bờ sông Hồng không biết dã rút đi đâu từ bao giờ”. Những hình ảnh và màu sắc ấy đã gợi cho người đọc biết bao suy ngẫm. Đó là một màu tím thẫm như bóng tối. Đâu phải là màu sắc tươi tắn mà dấu hiệu của sự tàn phai, tiêu biến. Còn ánh sáng rực rỡ của mặt trời cũng biến đi mất, thay thế bằng bầu trời dần trở nên xám xịt khi tiết trời chuyển sang đông. Cái tàn lụi đó bỗng trở nên gấp gáp, nhẫn tâm khi nó gắn với tâm trạng và cảnh ngộ của Nhĩ.

Tác giả đã sử dụng biện pháp tương phản, đối lập để tạo nên sự khác biệt giữa bờ bên này và bờ bãi bên kia sông Hồng. Nếu bên này bờ, nơi Nhĩ đanh đau đớn vì sự hành hạ của căn bện quái ác, mang màu sắc nhợt nhạt, ảm đạm của sự héo úa, lụi tàn, như sắp bị bóng tôi bao trùm và nuốt chửng, thì ở bên bãi bồi bên kia sông Hồng lại hiện lên với vẻ vô cùng rực rỡ. Trong đôi mắt của Nhĩ, bờ bãi sông hồng hiện lên với những hình ảnh “tiết trời đầu thu đem đến cho con sông Hồng một màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra. Vòm trời cũng như cao hơn. Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông, và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ...”. Bờ bãi sông Hồng khoác lên mình một màu sắc tươi non, của phù sa, của màu vàng lúa chín, màu xanh non của cỏ cây - những thứ màu sắc đặc trưng chỉ thuộc về sức sống. Mà trong tâm thức của Nhĩ, đó là thứ “màu sắc thân thuộc quá, như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”. Sức sống như đang trỗi dậy mạnh mẽ trên dòng nước mênh mông khi mặt sống lấp lánh trở nên rộng thêm ra. Cảnh hiện lên càng đẹp bao nhiêu thì nỗi day dứt, xót xa trong lòng Nhĩ lại càng hiện hình rõ nét bấy nhiêu, để rồi anh nhận ra một nghịch lí trong cuộc đời mình “Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến - cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình.”. Có ai đã đi khắp thế gian mà lại chưa bao giờ đặt chân tới vùng đất ngay gần nhà? Ấy vậy mà Nhĩ chưa bao giờ đặt chân sang bãi bồi bên kia sông, vì chưa bao giờ anh nghĩ đó là một cảnh đẹp có gì đáng để thăm thú và ngắm nhìn. Nhưng vào những ngày cuối đời nằm liệt trên giường bệnh, anh lại nhận ra điều ngược lại.

Truyện của Nguyễn Minh Châu hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình và tính triết lí. Ông đã tạo dựng những tình huống đặc biệt, những đối lập và nghịch lí để nhân vật chiêm nghiệm ra cái triết lí nhân sinh – đời người. Ông xây dựng nhiều hình ảnh, chi tiết mang ý nghĩa biểu tượng, có sức chứa lớn về cảm xúc, tư tưởng. Hầu hết những hình ảnh trong truyện đều mang hai nghĩa: nghĩa thực và nghĩa biểu tượng. Hai lớp nghĩa này gắn bó, thống nhất, khiến cho các hình ảnh không bị mất đi giá trị tạo hình và sức gợi cảm. Ý nghĩa biểu tượng được gợi ra từ hình ảnh thực và được đặt trong hệ quy chiếu của chủ đề tác phẩm. Và hình ảnh bãi bồi ven sông trong cái nhìn so sánh, đối lập với căn gác xép chập hẹp, nóng hầm hập của Nhĩ chính là một ẩn dụ cho cuộc đời con người, luôn bó hẹp mình trong những tính toán, trong những chuyến đi xa, mà quên mất rằng, hạnh phúc không ở cách quá xa, mà nó hiện hữu ở ngay đây, ngay trong những gì thân thuộc, gần gũi nhất. Hạnh phúc đối với Nhĩ những giây phút cuối đời, chỉ là được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông Hồng. Nhưng nó lại là ước muốn quá đỗi xa vời với anh.

Có thể nói, thiên nhiên hiện lên trong đoạn văn được đặt trong cái nhìn đối lập giữa sự nhợt nhạt đến đáng thương của những bông bằng lăng tím với sắc hồng hồng quyến rũ đầy sức sống của bãi bồi bên kia sông. Qua đó, Nguyễn Minh Châu cũng gửi gắm những quan niệm, triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người.

Đề bài:

Hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các nhân vật nữ thanh niên xung phong trong truyện Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê

Hướng dẫn giải

“Ðường ra trận mùa này đẹp lắm

Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây”

Con đường Trường Sơn đỏ lửa trong những năm tháng chiến đấu chống Mĩ gian khổ cũng chính là con đường của ý chí chiến đấu, của khát vọng và của tương lai. Những người thanh niên trẻ tuổi nối đuôi nhau từng lớp từng lớp từ hậu phương vào tiền tuyến trong tâm thế sẵn sàng. Đó là hình ảnh của cả một đất nước đứng lên. Lê Minh Khuê đã để cho những cô gái của mình sống mãi với thời gian trên cao điểm thuộc tuyến đường Trường Sơn này qua tác phẩm Những ngôi sao xa xôi. Đó là Nho, là Thao, là Phương Định - những cô thanh niên xung phong can trường, là hình ảnh đại diện cho cuộc sống chiến đấu và tinh thần của thế hệ trẻ Việt Nam những năm tháng ác liệt ấy.

Những ngôi sao xa xôi được Lê Minh Khuê viết vào năm 1971. Đó là thời kì kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra gay go và ác liệt nhất. Trên các mặt trận, ở khắp các nẻo đường, đế quốc Mĩ thả bom dữ dội, tìm cách tiêu diệt lực lượng cốt cán của ta. Tuyến đường Trường Sơn - con đường huyết mạch nối liền giữa hậu phương và tiền tuyến, trở thành cái đích để địch tàn phá. Thế nhưng, cũng chính nhờ cái dữ dội của bom đạn mà chúng ta nhìn thấy hình ảnh của cả một thế hệ với ý chí chiến đấu bất diệt, với tinh thần lạc quan mà không bom đạn nào có thể mài mòn được. Ba cô gái thanh niên xung phong, Nho Thao và Phương Định xuất hiện trong hoàn cảnh ấy. Ba cô gái trở thành hình ảnh đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ máu lửa.

Trước hết, ba cô gái được giới thiệu sống và làm việc trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt. Nho, Thao và Phương Định sống trong một “cái hang dưới chân cao điểm”. Mới chỉ là nơi sống thôi nhưng người đọc cũng có thể hình dung về sự thiếu thốn, khó khăn của cuộc sống nơi chiến trường. Con đường đi qua đây được tác giả miêu tả bằng một giọng điệu thờ ơ, như đó là điều hiển nhiên, mặc cho hiện thực hiện lên thực sự khốc liệt: "đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lôn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to...” Cuộc sông xung quanh cái hang đá dưới chân cao điểm của họ dường như không có sự sống, hoặc có thì cũng chỉ là trong quá khứ và đã bị bom đạn của kẻ thù tước đoạt đi. Màu xanh của lá chỉ còn là những cành cây đen thui, cháy rụi. Những câu văn ngắn, liên tiếp nhau như phần nào cho ta thấy được những đợt tấn công dữ dội, ác liệt của kẻ thù trên tuyến đường này. Nhưng nếu chỉ sống ở cao điểm thì chưa đủ để hình dung về cuộc đời của những cô gái này. Họ phải đảm nhiêm một công việc tưởng như đơn giản nhưng thực ra cái chết luôn kề cận và có thể đến bất cứ lúc nào vì “thần chết là một tay không thích đùa”. Công việc của họ là “ngồi đây. Khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Đó là một công việc vô cùng nguy hiểm, chỉ cần sơ sảy một chút là có thể đánh đổi bằng cả tính mạng của mình. Thế nhưng, những cô gái ấy vẫn nhận và hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Chỉ bằng vài chi tiết ở đầu tác phẩm, Lê Minh Khuê đã dựng lên không khí căng thẳng, sục sôi của chiến trường những năm tháng mưa bom bão đạn. Cùng với đó là cuộc sống thiếu thốn, vất vả với công việc lúc nào cũng đánh đu với tử thần. Đó cũng chính là hoàn cảnh sống và làm việc của tất cả những người lính ra chiến trường dịp ấy.

Hoàn cảnh sống và làm việc khốc liệt là thế, nguy hiểm là thế nhưng dường như đó cũng chỉ là phông nền để các cô gái xuất hiện mà khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của mình mà thôi. Cả Nho, Thao và Phương Định đều là những cô gái trẻ, mới chỉ ngoài hai mươi tuổi. Đó là lứa tuổi thanh xuân, lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người. Khi ấy ta còn trẻ, những ước mơ, khao khát hoài bão cũng đang ở độ chín nhất. Và với họ, hoài bão là được chiến đấu ở chiến trường, khát khao đất nước được độc lập, thống nhất. Đó cũng là mục đích chiến đấu của cả dân tộc Việt Nam nói chung, của thế hệ trẻ nói riêng lúc bấy giờ. Họ còn là những cô gái gan dạ, dũng cảm và có tinh thần trách nhiệm cao với công việc. Chạy trên cao điểm lúc bom nổ không phải là chuyện đùa. Nhưng họ vẫn làm. Và làm hàng ngày. Công việc phá bom được thuật lại một cách nhẹ nhàng qua lời của Phương Định “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Những câu văn ngắn mang giọng điệu trần thuật thản nhiên khiến ta cũng thấy bất ngờ. Câu văn ấy cũng có nghĩa, việc phá bom đã quen thuộc với họ tới nỗi nó thường xuyên hơn cơm bữa. Thế nên, họ không còn run sợ trước tiếng nổ đinh tai, trước sự rung chuyển của mặt đất mỗi khi bom nổ trên cao điểm nữa. Điều quan trọng nhất, đó là, dù công việc có nguy hiểm nhưng cả ba cô gái đều hoàn thành nhiệm vụ. Lấp hố bom, phá bom để đảm bảo an toàn cho những đoàn xe nối đuôi nhau từ hậu phương vào và tuyến đường Trường Sơn luôn được nối liền.

Đọc tác phẩm, người ta cũng nhận thấy ở Nho, Thao, Phương Định một tình đồng chí, đồng đội gắn bó máu thịt như thể họ là chị em trong một gia đình chứ không còn là những người xa lạ nữa. Phương Định coi Nho là que kem trắng muốt của mình còn chị Thao là người chị cả trong nhà. Họ sống với nhau bằng tình yêu thương giữa chiến trường khốc liệt luôn rình rập để cướp đi sinh mạng của bất kì ai. Trong một lần phá bom, Nho bị thương ở cánh tay, máu túa ra, ngấm vào đất, Phương Định và chị Thao đã chăm sóc cho cô tận tình, chu đáo. Phương Định thì đun sôi nước, rửa sạch vết thương, tiêm cho Nho. Chị Thao thì sợ máu nên không giúp được gì nhưng cứ luẩn quẩn bên ngoài, lo lắng và tìm cách phá tan cái bầu không khí ngột ngạt này bằng việc bảo Phương Định hát. Cả chị Thao và Phương Định đều thương và lo lắng cho Nho, nhưng không ai khóc vì “nước mắt đứa nào chảy trong khi cần cái cứng cỏi của nhau này là bị xem như bằng chứng của sự nhục mạ”. Họ không chỉ đùm bọc nhau mà còn tự động viên nhau sống cứng cỏi, mạnh mẽ, không để cái ác liệt của chiến trường bào mòn đi ý chí của mình.

Cơn mưa đá bất ngờ cuối truyện đã hoàn thành bức chân dung của ba cô gái thanh niên xung phong, để họ hiện lên là những cô gái với vẻ hồn nhiên, đáng yêu, lạc quan. Chiến trường khốc liệt cũng không đủ sức phá hủy tâm hồn của những cô gái trẻ. Họ sống giữa cái chết mà vẫn giữ được sự trẻ trung, tươi vui của mình. Nho là cô gái với tính cách trẻ con, phải ăn được kẹo sau khi vừa tắm dưới suối lên. Chị Thao là người lớn tuổi nhất trong ba đứa, chín chắn và cương quyết hơn, nhưng ở chị vẫn là một cô gái trẻ tuổi, thích làm đẹp, mông mơ áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu, tỉa lông mày nhỏ như cái tăm, thích chép lời bài hát  với ba cuốn sổ dày. Còn Phương Định, cô sống ở chiến trường bằng những kí ức về Hà Nội, về quê hương mình. Những kí ức ấy đã làm dịu mát tâm hồn cô giữa chiến trường này.

Nho, Thao, Phương Định là ba cô gái thanh niên xung phong kiên cường, dũng cảm nhưng vẫn mang trong mình sức trẻ, sự hồn nhiên và trẻ trung vào chiến trường. Những con người ấy là đại diện cho một lớp trẻ Việt Nam với niềm vui phơi phới ra chiến trường, đem thanh xuân của mình để đánh đổi lại bằng độc lập, tự do cho dân tộc, như một nhà thơ đã từng viết:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

Có thể nói, Lê Minh Khuê đã dựng nên những bức tượng đài bất tử về những cô gái thanh niên xung phong trên chiến trường thời kì khốc liệt. Chính họ là những người đã viết nên những trang sử hào hùng về thời kì cả đất nước đứng lên.

Đề bài:

 Cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ  trong truyện Bến quê. Qua nhân vật này, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm những suy ngẫm gì về còn người và cuộc đời?

Hướng dẫn giải

Nguyễn Minh Châu là người mở đường tài hoa và tinh anh nhất. Những sáng tác của ông mang đậm tính triết lí và suy luận, cũng là những trăn trở của ông về quá trình đấu tranh để hoàn thiện con người. Bến quê ra đời năm 1985 là một sáng tác tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Thông qua cảnh ngộ và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, ông đã gửi gắm những suy ngẫm, triết lí của mình về cuộc đời và con người.

Nhĩ được giới thiệu là một người từng đi nhiều nơi trên thế giới: “suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên Trái Đất”. Vậy nên, có thể hiểu rằng, trong anh luôn tràn ngập những cảnh lộng lẫy, nhộn nhịp của bao cảnh phồn hoa, đô hội. Không chỉ thế, chẳng có vẻ đẹp nào tồn tại trên đời nay anh chưa được thưởng thức. Nhưng trớ trêu thay, anh lại một rơi vào một bi kịch của sự sống: anh bị mắc một căn bệnh quái ác, phải nằm liệt giường hàng tháng trời nay. Trong nghịch cảnh bi đát ấy, anh chợt phát hiện ra vẻ đẹp chốn quê hương bình dị, đẹp đẽ của mình. Nhĩ đã phát hiện ra vùng đất bên kia sông, nơi bến quê thân thuộc nghèo khó của mình lai có một vẻ đẹp bình dị mà quyến rũ. Người vợ tảo tần lam lũ, những người hàng xóm truân chuyên mộc mạc,... ở họ toát lên một vẻ đẹp cao quý đáng trân trọng của tình cảm vợ chồng, tình làng nghĩa xóm ân tinh thắm thiết. Cảnh ngộ của Nhĩ dường như khiến người đọc cũng phải giật mình, bởi lẽ, có vẻ như nó giống với đa số cuộc đời của chúng ta quá. Nghịch cảnh của cuộc sống không chưa một ai cả, nó có thể đến vào lúc chúng ta không ngờ. Câu chuyện của Nhĩ là lời cảnh tỉnh chúng ta về quy luật của cuộc đời: dù có tính toán cả cuộc đời, ta vẫn không thể nào tính toán được nó một cách chu toàn, vì sẽ luôn có những sự việc, luôn có những con người xuất hiện, nằm ngoài dự tính của chúng ta. 

Qua những suy nghĩ của nhân vật, Nguyễn Minh Châu còn muốn mang đến cho bạn đọc một chiêm nghiệm khác: “con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình”, ấy là những suy ngẫm về con người. Nhĩ dành cả cuộc đời của mình đi khắp mọi nơi trên trái đất, thưởng thức những vẻ đẹp hùng vĩ, chứng kiến cuộc sống sa hoa nhưng phải đến cuối đời, nằm trên giường bệnh, Nhĩ mới nhận ra vẻ đẹp đầy sức sống và cuốn hút ở bãi bồi bên kia sông và cả sự tảo tần, nhẫn nhịn của người vợ “vẫn giữ nguyên vẹn” được tâm hồn mình sau chừng ấy năm bôn ba. Con người ta cũng thế,  ta rời bỏ quê hương để tới với những vùng đất mới theo đuổi đam mê của mình rồi bị cuốn theo dòng hối hả tập nập của cuộc sống, chỉ đến khi sức cùng lực kiệt, quay trở về nhà, ta mới nhận ra hạnh phúc là những thứ không quá xa vời mà nó ở ngay bên cạnh ta, ngay từ những người ta thương yêu mà thôi.

Trong buổi sáng đầu thu, khi sắp từ giã cõi đời, Nhĩ bỗng phát hiện ra những vẻ đẹp mà trước đây, dù có điều kiện đi khắp thế giới, anh đã không thể nhận thấy được. Đó là một không gian có chiều sâu và bề rộng: từ những bông bằng lăng ngay phía ngoài cửa sổ đến con sông Hồng với màu đỏ nhạt lúc đã vào thu, vòm trời và bãi bồi bên kia sông. Đó là một cảnh đẹp chỉ có thể cảm nhận được bằng những cảm xúc tinh tế: những chùm hoa thưa thớt nhưng lại đậm sắc hơn, mặt sông Hồng như rộng thêm ra, vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng bờ bãi bên kia sông...”. Những cảnh sắc ấy vốn rất quen thuộc, gần gũi nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng chừng như lần đầu tiên anh mới gặp.

Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường và sâu xa của cuộc sống, những giá trị thường bị người ta bỏ qua hay lãng quên khi những ham muốn xa vời đang lôi cuốn, đang lấn át. Trong hoàn cảnh cùa Nhĩ, đó là sự thức tỉnh xen lẫn với niềm ân hận và nỗi xót xa.

Khi miêu tả tâm lý của nhân vật Nhĩ, Nguyễn Minh Châu rất tinh tế và thấm đượm tinh thần nhân đạo. Điều đó được thể hiện ngay từ cách lựa chọn và xử lý tình huống. Trong văn học, nhiều tác giả cũng đã đặt nhân vật vào hoàn cảnh hiểm nghèo để làm nổi bật lên khát vọng sống và sức sống mạnh mẽ của con người hay về lòng nhân ái, sự hi sinh cao thượng... Nguyễn Minh Châu đã khai thác tình huống này theo một hướng khác.

Trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, nhân vật suy ngẫm, tự trải nghiệm về cuộc đời với những suy nghĩ sâu sắc. Những suy nghĩ của nhân vật Nhĩ về lẽ sống, về cuộc đời, về những con người hết sức cụ thể như người vợ, đứa con và về chính cuộc đời mình. Trong con mắt của một người sắp từ giã cõi đời, cảnh vật trước mắt bỗng đẹp và đáng yêu kỳ lạ. Hôm nay. Nhỉ mới chợt phát hiện ra những vết sờn, những đường vá trên tấm áo của Liên. Và chính hình ảnh người vợ gầy guộc với bàn tay chan chứa yêu thương đã trở thành "nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này". Sự thức nhận của Nhĩ về vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông được tô đậm thêm qua hình ảnh của đứa con - trong hoàn cảnh bình thường - còn mải chơi và thấy bãi bồi bên kia sông chẳng có gì hấp dẫn. Đó chính là tình yêu đối với cuộc sống đã được trải nghiệm qua một cuộc đời nhiều thăng trầm, đang trải qua những giây phút hiểm nghèo.

Ở đoạn kết truyện, tác giả đã tập trung miêu tả chân dung và cử chỉ của nhân vật với vẻ rất khác thường: "Anh cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát - y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó". Hành động này của Nhĩ có thể hiểu là anh đang nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau kẻo lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày, thế nhưng qua suy nghĩ của Nhĩ trước đó, ta lại nhận ra một ý nghĩa khác: đó là ý muốn thức tỉnh mọi người về những cái "vòng vèo, chùng chình" để hướng tới những giá trị đích thực vốn rất giản dị, gần gũi và bền vững.

Nhân vật Nhĩ mang đến cho người đọc nhiều điều suy nghĩ về cuộc đời và số phận con người. Và với mỗi độ tuổi lại tìm được ở Nhĩ một bài học riêng cho mình. Riêng với thế hệ những người trẻ tuổi, nhờ nhân vật này chúng ta biết sống gắn bó hơn với quê hương, đất nước vẫn còn lam lũ nhưng chất phác, hồn hậu và dào dạt yêu thương của bản thân mình.

Có thể bạn quan tâm


Có thể bạn quan tâm