Hồ sơ tác giả Thanh Tịnh
Gửi bởi: Nguyễn Thị Vân 14 tháng 11 2019 lúc 17:00:19 | Được cập nhật: 3 giờ trước (15:04:27) Kiểu file: DOCX | Lượt xem: 517 | Lượt Download: 2 | File size: 0.136562 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuống
Link tài liệu:
Các tài liệu liên quan
- Đề cương ôn tập Văn 8 học kì 1 năm 2018-2019
- Tiết 39-Thông tin về ngày trái đất năm 2000
- 3 bài phân tích Chiếc lá cuối cùng
- Chuẩn kiến thức kĩ năng Ngữ Văn 8
- Lão Hạc - Nam Cao
- CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO VÀ KÍ ỨC TUỔI THƠ QUA ĐOẠN TRÍCH TRONG LÒNG MẸ
- Hệ thống văn bản Ngữ văn 8
- TỔNG HỢP KIẾN THỨC VĂN 8 KÌ 2_TÀI LIỆU HỌC TẬP VIP
- Cô bé bán diêm
- Khi con tu hú
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
Hồ sơ tác giả Thanh Tịnh
Thanh Tịnh (1911-1988), tên thật là Trần Văn Ninh (6 tuổi được đổi là Trần Thanh Tịnh), là
một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút danh khác của ông là: Thinh Không, Pathé
(trước 1945), Thanh Thanh, Trinh Thuần (sau 1945).
Thanh Tịnh – Trần Văn Ninh (1911-1988)
Thân thế và sự nghiệp
Ông sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911 tại xóm Gia Lạc,ven sông Hương, ngoại ô Huế.
Thuở nhỏ, ông theo học chữ Hán đến năm 11 tuổi, thì theo học chữ Qu ốc ng ữ t ại tr ường ti ểu
học (trường Đông Ba) và trung học (trường Pellerin của giáo hội Thiên Chúa giáo) ở Huế.
Đỗ bằng Thành chung, năm 1933, ông đi làm ở các sở tư rồi sau đó làm ngh ề d ạy h ọc. Th ời
gian này, ông bắt đầu viết văn, làm thơ và cộng tác với các báo Phong hóa, Ngày nay, Hà Nội
báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị, Tinh Hoa… Sáng tác đầu tay của ông là truyện “Cha
làm trâu, con làm ngựa” đăng trên Thần kinh tạp chí (1934).
Năm 1936, Thanh Tịnh cho xuất bản tập thơ Hận chiến trường.
Năm 1941, ông và hai bài thơ của ông (“Mòn mỏi” và “Tơ trời với tơ lòng”) được Hoài ThanhHoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (1942).
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Thanh Tịnh làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung
Bộ.
Năm 1948, ông gia nhập bộ đội. Sau đó, ông tham gia ph ụ trách đoàn k ịch Chi ến Th ắng c ủa
Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1945, ông tham gia phụ trách rồi làm Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội. Về sau, ông
thôi làm lãnh đạo, để chuyên sáng tác.
Năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957), và trở thành Ủy viên Ban
chấp
hành
Hội
khóa
I,
II.
Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Liên hiệp các Hội Văn học ngh ệ thu ật Vi ệt Nam, và mang c ấp
bậc Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam trước khi nghỉ hưu.
Thanh Tịnh mất ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội. Hiện phần mộ ông đ ặt t ại núi Thiên
Thai phía Tây thành phố Huế.
Tác phẩm
Tác phẩm của Thanh Tịnh đã xuất bản:
Trước 1945
Hận chiến trường (tập thơ, 1937)
Quê mẹ (truyện ngắn, 1941)
Tôi đi học (truyện ngắn, 1941)
Chị và em (truyện ngắn, 1942)
Con so về nhà mẹ (truyện ngắn, 1943). Viết tặng hương hồn Thạch Lam. In trong tập
Giai phẩm của Đời Nay năm 1943.
Ngậm ngải tìm trầm (truyện ngắn, 1943)
Sau 1945
Những giọt nước biển ( tập truyện ngắn – 1956)
Đi từ giữa mùa sen ( truyện thơ -1973)
Thơ ca ( thơ – 1980)
Thanh Tịnh đời và văn ( 1996)
Ngoài ra còn rất nhiều truyện ngắn mà Thanh tịnh đã sáng tác ra như: Am Cu-ly Xe,…..
Tặng thưởng
Nhà thơ Thanh Tịnh đã được tặng thưởng:
Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1951-1952) cho những bài độc tấu xuất sắc.
Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2007.
Ngoài ra, ông còn là người chiếm giải nhất (bài Lời cuối cùng) đồng hạng với nhà thơ Phạm
Đình Bách trong cuộc thi thơ tháng Hai do báo Hà Nội báo tổ chức năm 1936.
Nhận xét
Khi đi học, Thanh Tịnh ham thích văn chương. Hai nhà văn Pháp là Alphonse Daudetiega
Malebi và Guy de Maupassantalieniment có ảnh hưởng không nhỏ đến văn phong của Thanh
Tịnh sau này. Tuy nhiên, ông không thành công trong lĩnh vực viết truyện dài (Xuân và sinh,
1944), nhưng được người đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Trước 1945, thơ ông mang
phong cách lãng mạn đậm nét. Trong những bài tiêu biểu như Tơ trời với tơ lòng, Vì đàn câm
tiếng, Muôn bến, Rồi một hôm...đều mượt mà, tinh tế, hàm súc nhưng hơi buồn và in rõ dấu
ấn bâng khuâng, thơ mộng của truyền thống văn hóa, tinh thần xứ Huế. Trong các tập truyện
ngắn Quê mẹ (1941), Chị và em (1942), Ngậm ngải tìm trầm (1943) đều có nhiều truyện đẹp,
trong sáng và gợi cảm.
Sau 1945, trong kháng chiến, Thanh Tịnh đã khai sinh ra hình thức độc tấu. Nó thường là một
bài văn ngắn, có tính chất tự sự, hoặc là đề cập đến những vấn đ ề th ời s ự và xã h ội. Ngôn
ngữ của tấu thường giản dị pha chút dí dỏm. Cách diễn đạt thường là nói, ngâm hay hát hò
chỉ là phụ… Thơ trữ tình của Thanh Tinh từ 1945 trở về sau, nhìn chung không nổi bật. Ông
viết thiếu lắng đọng, thiếu tinh tế, trừ một số bài viết theo phong cách lãng m ạn mà ông đã
thành công trước đây…