Đề thi học kì 1 Văn 11 năm 2021-2022
Gửi bởi: Nguyễn Minh Lệ 14 tháng 5 2022 lúc 11:03:39 | Được cập nhật: 30 tháng 4 lúc 18:45:24 | IP: 14.250.62.92 Kiểu file: DOC | Lượt xem: 25 | Lượt Download: 0 | File size: 0.090624 Mb
Nội dung tài liệu
Tải xuốngCác tài liệu liên quan
- Đề thi học kì 2 Văn 11 trường THPT Phước Thiên năm 2017-2018
- Đề thi học kì 2 Văn 11 trường THPT Ngô Gia Tự năm 2017-2018
- Đề thi học kì 2 Văn 11 trường THPT Công Hiền năm 2017-2018
- Đề thi học kì 2 Văn 11 tỉnh Thái Bình
- Đề thi HSG Văn 11 trường THPT Ngô Thị Nhậm năm 2017-2018
- Đề thi HSG Văn 11 trường THPT Liên Sơn năm 2018-2019
- Đề thi HSG Văn 11 trường THPT Hùng Thắng năm 2021-2022
- Đề thi giữa kì 1 Văn 11 trường THPT Đại Từ năm 2021-2022
- Đề thi HSG Văn 11 trường THPT Hà Huy Tập năm 2016-2017
- Đề thi học kì 2 Văn 11 trường THPT Vĩnh Yên năm 2020-2021
Có thể bạn quan tâm
Thông tin tài liệu
SỞ GDĐT TỈNH ....... TRƯỜNG THPT .........
|
KIỂM TRACUỐI KÌ I NĂM HỌC 2021 - 2022 Môn: NGỮ VĂN, LỚP 11 Thời gian làm bài: 90 phút, không tính thời gian giao đề
|
|
|
|
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc bài thơ: ĐI THI TỰ VỊNH
Nguyễn Công Trứ
Đi không há lẽ trở về không ?
Cái nợ cầm thư phải trả xong.
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng.
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.
(Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Trương Chính biên soạn, NXB Văn học, 1983)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác địnhphương thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 2. Chỉ ra từ ngữ thể hiện không gian nghệ thuật trong văn bản.
Câu 3. Nêu hiệu quả của phép đối được sử dụng trong hai câu thơ:
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng.
Câu 4. Tâm sự của tác giả trong hai câu thơ: Đã mang tiếng ở trong trời đất,/Phải có danh gì với núi sông gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Anh/Chị hãy viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 150 chữ) bày tỏ suy nghĩ về sức lan tỏa của lòng vị tha trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
“Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa này chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián.
Trong một không khí khói lửa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi lia lịa.
Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, để xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quan ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo:
Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?...Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ớ đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo.
Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau.
Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
(Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân -SGK Ngữ văn 11, NXB Giáo dục, 2009, tập Một,tr 113-114)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích trên.
-----HẾT-----
|
HƯỚNG DẪN CHUNG (Đáp án và hướng dẫn chấm) |
------ Hết------