Cộng đồng chia sẻ tri thức Lib24.vn

Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

Gửi bởi: Phạm Thọ Thái Dương 12 tháng 2 2020 lúc 10:24:02


Mục lục
* * * * *
Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận

I. LỖI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NÊU LUẬN ĐIỂM

1. Chỉ ra lỗi nêu luận điểm

a.  Cảnh vật trong bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến thật là vắng vẻ. Ngõ trúc quanh co, sóng nước gợn tí, lá vàng đưa vèo, chiếc thuyền bé tẻo teo… Cảnh vật dường như ngưng đọng, im lìm. Bởi vậy, nét bút của Nguyễn Khuyến đã tạo dựng thành công cảnh sắc im ắng ấy    

=> Luận điểm chưa khái quát chủ đề của cả đoạn văn. Vì câu nào cũng có những từ nghĩa tương đương nhau “vắng vẻ”, “ngưng đọng, im lìm”, “im ắng”. Nội dung ở cả ba câu văn trong đoạn đều trùng lặp, chưa có sự phát triển ý    

b. 

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”.

Người làm trai thời xưa luôn mang theo bên mình món nợ công danh, mang khao khát “vinh quy bái tổ”, “chức cao vọng trọng” để làm rạng danh tổ tiên, để mở mày mở mặt với thiên hạ… Phạm Ngũ Lão cũng mang theo bên mình món nợ công danh, nhưng qua hai câu thơ của ông có thể cách nhìn, hoài bão và khát khao của ông cao hơn, xa hơn hẳn kẻ tầm thường. Theo ông, người làm trai phải trả món nợ công danh để không hổ thẹn với những người đi trước mình, những người xung quanh mình và quan trọng hơn là không hổ thẹn với chính bản thân mình.

=> Dù là câu mở đầu (đối với đoạn diễn dịch) hay câu kết đoạn (đối với đoạn quy nạp) đều chưa nêu được chủ đề, nội dung chính mà đoạn văn đề cập đến

c. Văn học dân gian ra đời từ thời xa xưa nhưng đến nay vẫn tiếp tục phát triển. Nhắc đến nó, người ta hình dung ra một cuốn sách bách khoa về cuộc sống. Tiếp nhận văn học dân gian là tiếp nhận tri thức hữu ích từ cuộc sống. Không cần lí lẽ, hình ảnh quá trừu tượng mà chính là kinh nghiệm từ đời sống phong phú sinh động đã khiến văn học dân gian có sức hấp dẫn. Ví như câu tục ngữ: “Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy/ Cơn đằng nam vừa làm vừa chơi”. Câu tục ngữ đã đúc kết kinh nghiệm từ thực tế: Cơn mưa từ đông kéo tới thì mưa rất nhanh. Trái lại, cơn mưa đằng nam kéo đến thì rất lâu mới có mưa. Câu tục ngữ này đã giúp ích rất nhiều cho bà con nông dân.

=> Nội dung trong đoạn chưa làm sáng tỏ được chủ đề: văn học dân gian vẫn tiếp tục phát triển từ xa xưa cho tới ngày nay

2. Chữa lại đoạn văn

a.

          Cảnh vật trong bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến đã mở ra không gian tĩnh lặng, yên bình của làng cảnh xưa. Ngõ trúc quanh co, sóng nước gợn tí, lá vàng đưa vèo, chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Tất cả sự vật đều như chìm trong cơn ngủ say, tĩnh tại, không vận động. Cảnh vật dường như ngưng đọng. Có chăng đó chỉ là sự gợn nhẹ của sóng, chiếc lá rơi khẽ khàng. Cảnh vật vắng vẻ, im ắng ấy thực chất gợi lên sự thanh bình của miền quê, của cuộc sống ở ẩn nơi thôn dã.

b.

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”.

          Người làm trai trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão luôn mong muốn được tung hoành để thỏa cái trí của mình, để noi gương người đi trước, làm gương cho hậu thế và không hổ thẹn với chính mình. Người làm trai thời xưa vốn luôn mang theo mình món nợ công danh, mang khát khao “vinh quy bái tổ”, “chức cao vọng trọng” để làm rạng danh tổ tiên, để mở mày mở mặt với thiên hạ. Phạm Ngũ Lão cũng mang bên mình món nợ công danh và hoài bão khát khao của ông còn cao, xa hơn hẳn kẻ tầm thường. Theo ông, người làm trai phải trả món nợ công danh, noi gương người xưa. Vũ Hầu là Gia Cát Lượng, người toàn tài hiếm có, nổi tiếng cả về nhân đức, trí tuệ. Phạm Ngũ Lão trí lớn, hoài bão lớn là vậy nhưng vẫn thấy thẹn khi nghĩ đến Vũ Hầu. Điều đó khẳng định nhân cách, tráng trí của người trai thời xưa nói chung và của Phạm Ngũ Lão nói riêng.

c.

          Văn học dân gian ra đời từ xa xưa và vẫn tiếp tục phát triển cho tới ngày nay. Văn học dân gian được xem là cuốn bách khoa về cuộc sống. Tiếp nhận văn học dân gian là tiếp nhận tri thức hữu ích từ cuộc sống. Tuy bình dị trong ngôn ngữ, cách diễn đạt nhưng văn học dân gian lại có sức hấp dẫn riêng nhờ vốn tri thức, những kinh nghiệm đời sống phong phú sinh động mà văn học dân gian chuyển tải. Ví dụ như câu tục ngữ “Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy/ Cơn đằng nam vừa làm vừa chơi” đã đúc kết kinh nghiệm về thực tiễn. Như câu ca “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” chứa đựng giá trị nhân văn truyền thống của dân tộc. Hay những truyện ngụ ngôn được xem như túi khôn, những truyện cổ tích luôn phản ánh tâm tư nguyện vọng, ước mơ muôn thuở của người bình dân về lẽ công bằng, thiện – ác ở đời… Bởi giá trị phong phú ấy mà văn học dân gian có sức sống lâu bền, ngay cả trong cuộc sống hiện đại.

II. LỖI LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NÊU LUẬN CỨ

1. Chỉ ra lỗi nêu luận cứ

a. 

Nắng xuống, trời lên xanh bát ngát

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Thường khi nắng chiều đã xuống thì bầu trời trở nên xanh mênh mông, bát ngát, cảnh đẹp của quê hương cũng không lấp được nỗi mênh mông trống trải, cô đơn trong lòng người.

- Luận cứ mơ hồ, thiếu chính xác:

+ Trời lên xanh bát ngát.

+ Khi chiều đã xuống thì bầu trời không thể "xanh mênh mông bát ngát" được

b. Trong lịch sử chống ngoại xâm, chúng ta thấy dân tộc ta anh hùng hào kiệt đời nào cũng có. Hai Bà Trưng phất ngọn cờ hồng khởi nghĩa đánh tan Thái thú Tô Định, buộc hắn phải trốn vào đám loạn quân chạy về nước. Đất nước sau hơn hai thế kỉ bị phong kiến nước ngoài đô hộ đã giành được thắng lợi hoàn toàn.

- Lỗi:

+ Luận cứ đưa ra chưa đầy đủ, mới chỉ nêu dẫn chứng về Hai Bà Trưng.

+ Luận cứ thiếu chính xác: “Đất nước sau hơn hai thế kỉ bị phong kiến nước ngoài đô hộ đã giành được thắng lợi hoàn toàn

c. Lịch sử dân tộc ta đã ghi biết bao nhiêu trang sử hào hùng với những tên tuổi sáng chói muôn đời. Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán. Nguyễn Huệ đánh tan quân xâm lược nhà Thanh. Lê Lợi đại phá quân Minh. Ải Chi Lăng mãi là mồ chôn quân xâm lược. Đời Trần Hưng Đạo lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Nguyên giành lại nền độc lập cho đất nước. Cửa biển Bạch Đằng lập chiến công lừng lẫy non sông. Những tên tuổi đó mãi mãi sống cùng non sông đất nước

- Lỗi:

+ Luận cứ thiếu tính hệ thống, logic. Luận cứ không phù hợp với luận điểm: "Ải Chi Lăng .... Cửa biển Bạch Đằng".

+ Các địa danh này không phải là "tên tuổi".

2. Sửa lỗi trong đoạn văn

a. Sửa lại luận cứ:

+ “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”.

+ Khi "nắng xuống, trời lên thì bầu trời, lòng sông mở ra vừa cao, vừa sâu đến vô tận".

b. Sửa lại: Cần bổ sung cho phù hợp luận điểm: "Dân tộc ta anh hùng hào kiệt thời nào cũng có"

c. Sửa lại: Ngô Quyền - Trần Hưng Đạo - Lê Lợi - Nguyễn Huệ

III. LỖI VỀ CÁCH THỨC LẬP LUẬN

1. Xác định và phân tích lỗi về lập luận:

a. Từ xưa, vẻ đẹp và số phận người phụ nữ luôn là một đề tài chủ đạo trong thơ văn. Trong nền văn học trung đại Việt Nam, nhiều tác giả đã viết về đề tài này như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn,… Nhưng người đã phản ánh một cách sâu sắc nhất bi kịch của người phụ nữ chính là Nguyễn Du.

- Luận cứ trình bày thiếu logic, lộn xộn. Hệ thống luận cứ không đủ để làm sáng rõ cho luận điểm chính

b. Nam Cao viết nhiều về nông thôn. Lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh đói. Anh cu Phúc chết lặng trong xó nhà ẩm ướt, trước những đôi mắt “dại đi vì đói” của hai đứa con. Bà cái đĩ chết vì một bữa no, tức là một kiểu chết vì quá đói. Lại có cảnh đám cưới, nhưng cưới để chạy đói

- Luận điểm không rõ ràng. Luận cứ thiếu toàn diện chỉ tập trung vào “cái đói” trong tác phẩm viết về đề tài nông thôn và nông dân của Nam Cao.

c. Mùa thu là một đề tài gợi nhiều cảm hứng cho thi nhân. Chính vì thế, mùa thu đã là một thi đề quen thuộc trong thơ ca trung đại Việt Nam. Tinh tế và sâu lắng nhất phải kể đến cảnh thu với nỗi sầu muộn vô biên của Đỗ Phủ (Thu hứng). Còn trong thơ ca Việt Nam trung đại, Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ của mùa thu làng quê với chùm thơ Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm

- Luận điểm không rõ ràng. Phần gợi mở dẫn dắt không phù hợp cho việc nêu bật lên luận điểm chính.

- Luận cứ dùng để mở rộng, tiếp tục phát triển đề tài không phù hợp với phạm vi đề tài nêu trong những câu trước: “Tinh tế và sâu lắng nhất phải kể đến cảnh thu với nỗi sầu muộn vô biên của Đỗ Phủ” (Thu hứng).

2. Sửa lại các lỗi về lập luận

a. Sửa: Từ xưa đến nay, vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ luôn là đề tài chủ đạo trong thơ văn. Trong nền văn học trung đại Việt Nam nhiều tác giả đã viết về đề tài này như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn,... Nhưng người phản ánh một cách sâu sắc nhất về vẻ đẹp và số phận người phụ nữ là Nguyễn Du.

b. Sửa: "Nam Cao viết nhiều về vấn đề miếng cơm manh áo".

c. Sửa: Mùa thu là đề tài gợi nhiều cảm hứng cho các thi nhân. Ta biết đến Đỗ Phủ với bức tranh thu nhuốm nỗi sầu vô biên, một Nguyễn Du với rừng phong thu nhuộm màu chia li.Nhưng để lại ấn tượng sâu sắc nhất phải kể đến Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, với chùm thơ thu: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm.


Được cập nhật: 17 tháng 4 lúc 7:56:26 | Lượt xem: 785

Các bài học liên quan